- Hiện nay có rất nhiều Wap giả mạo KhoTruyenHay.Info, vì vậy các bạn hãy nhớ trang Wap đọc truyện tình yêu, truyện tình cảm, truyện ngắn online, tiểu thuyết tình yêu cập nhật miễn phí hay nhất tại KhoTruyenHay này nhé!
Thông Báo: Tên miền KhoTruyenHay.Info chính thức được sáp nhập vào địa chỉ cũ là KhoTruyenHay.Sextgem.Com vào ngày 18/08/2015. Hãy lưu lại địa chỉ KhoTruyenHay.Info để tiện việc truy cập nhé!
Các bạn hãy Click vào Tham Gia Nhóm của KhoTruyenHay.Info trên FaceBook để giao lưu cùng mọi người nhé!
Phần 6: Cương thi mỹ nhânTrương Tiểu Biện xúi giục đoàn người đi vào núi sâu bắt ếch. Người làng Kim Quang đương lúc thóc cao gạo kém, nhiều nhà mấy ngày không đỏ lửa, bấy giờ thấy ếch trong núi rất nhiều, lòng tham đã nổi lên, thì chẳng gì ngăn được nữa. Họ bỏ ngoài ta truyền thuyết về cương thi trong khe núi, cùng nhau tập hợp lại, chuẩn bị đi theo Trương Tiểu Biện tìm đến đầu nguồn của cái khe bùn lầy.
Người trong làng đều biết Trương Tiểu Biện là “Trương gan lớn”. Thường ngày, hắn vẫn một thân một mình ở trong ngôi miếu nát, vốn chẳng sợ quỷ thần, lại thêm mồm mép nhanh nhảu, những chuyện chơi bời, du hiệp trong làng đều không thiếu mặt hắn, trong lứa đồng niên ở làng, hắn cũng kết giao khá rộng. Đám dân làng đi bắt ếch này phần lớn là cánh sinh cùng năm với Trương Tiểu Biện, nói chung đều là hạng cùng trang lứa cả, trong đám ấy thì Tôn Đại Ma Tử là cao lớn khôi vĩ nhất, lại còn biết một chút quyền cước côn bổng, tính tình trung hậu, ngay thẳng, vì vậy trước giờ mọi người đều coi gã là đàn anh, chẳng ngờ lần này lại bị thằng oắt Trương Tiểu Biện cướp lấy cờ đầu, trong lòng lấy làm bực tức, gương mặt mụn bạnh ra, giơ cây gập lên, cản cả đám lại.
Trương Tiểu Biện xưa nay là kẻ biết lựa theo chiều gió, tự hiểu rằng nếu lấy cứng chọi cứng, ắt mình không bằng gã Tôn Đại Ma Tử to khỏe này, vội vã quay lại nói với mọi người: “Làng chúng ta có anh Đại Ma Tử, xem thân thủ ấy đúng là một bậc anh hùng, cử chỉ lại hết sức đĩnh đạc đường hoàng, có bậc hảo hán chọc trời khuấy nước này cùng chúng ta đi bắt ếch, thật đúng là như hổ thêm cánh, dẫu cho trời sập cũng chẳng sợ gì.”
Tôn Đại Ma Tử nghe Trương Tiểu Biện nịnh mình “thân thủ anh hùng, cử chỉ đĩnh đạc”, trong lòng lấy làm dễ chịu, cũng thấy mình ngời ngời hẳn lên, lập tức toét miệng cười ngờ nghệch, bảo: “Tam đệ nói có lý lắm, trong núi dẫu nguy hiểm bao nhiêu chăng nữa, chỉ cần mỗ có cây côn này trong tay thì chẳng lo gì. Nhưng giờ cũng trưa rồi, bọn ta mải miết cả nữa ngày, chưa ai có gì nhét vào bụng cả, chi bằng xuống núi gầy lò thổi cơm đã, ăn uống no say, rồi ta vào khe Mỹ Nhân bắt ếch, cố gắng ra về trước khi trời tối.”
Cả bọn làm lụng từ sáng nên cũng đói lả, nghe thấy vậy đều đồng thanh khen là phải rồi vội xuống chân núi. Đám người làng giữ xe lừa đã đào bếp bắc chảo từ nãy, đem ít khoai tây, củ cải mang sẵn từ nhà thái thành một đống lớn, đổ thêm nước vào chảo, gia giảm thêm ít rau cỏ dại, đun riu riu một lúc cho nước hơi sôi lên.
Đợi đám bắt ếch đi xuống hết, họ mới thêm củi lửa, đun nước sôi sùng sục, bắt mấy con ếch béo còn đang giãy đành đạch, rồi cũng chẳng lột da làm thịt , cứ thế ném thẳng vào chảo nước sôi, rồi nhanh tay đậy chặt vung lại. Lúc ấy liền nghe tiếng bọn ếch trong chảo lục đà lục đục, một lát sau, nước lại sôi lên sùng sục, trong chảo bộc lên mùi thơm nức mũi, mở nắp chảo thấy bọn ếch đã bị luộc chín, con nào con nấy phùng mang trợn mắt ôm chặt lấy một miếng khoai tây hoặc củ cải. Cũng bởi những con ếch bị luộc sống, trước khi chết đau đớn, khổ sở vô cùng, chỉ còn cách ôm chặt lấy khoai tây, củ cải, đến chết cũng không buông.
Bọn người làng ăn ếch hầm, thường vẫn hay dùng cái cách tàn nhẫn này. Họ vớt con ếch nóng hôi hổi trong chảo ra, cắn miếng ếch cùng với khoai tây và củ cải nó đang ôm chặt, mùi vị thơm ngon còn hơn cả thịt gà tơ. Cả mấy năm nay trời không mưa lớn, lại gặp đúng kỳ giáp hạt, bình thường một ngày hai bữa, đến củ cải, khoai tây cũng không đủ no. Dân làng đã lâu không được ăn tười, ngửi thấy mùi thịt thơm, đều chảy hết cả nước dãi, ăn ngấu ăn nghiến, một lắt đã sạch nhẵn.
Đám ngu dân coi chuyện lên núi bắt ếch sau mưa như ngày hội được mùa, mà đâu biết đến lẽ trời tuần hoàn, báo ứng chẳng sai chẳng sót, hẵng tạm chưa bàn đễn cái nhẽ nhân quả, sâu xa ở bên trong “đời này người ăn ếch, kiếp sau ếch ăn thịt người”, trước mắt tai họa tày trời sắp giáng xuống mà đám người làng vẫn mải mê ăn uống, đâu biết rằng kiếp nạn này sẽ không ai thoát nổi.
Trương Tiểu Biện và đám Tôn Đại Ma Tử ai nấy no căng, hương vị bữa ăn hồi lâu sau vẫn còn đọng lại trong mồm, cảm tưởng như người sống trên cõi đời này nếu ngày nào cũng được xơi bữa ếch hầm thì sống cũng chẳng uổng phí, thấy sắc trời đang đẹp, cả đám liền xoa tay xoa chân đi lên lần nữa, định bụng bắt sạch bọn ếch đang trốn trong hõm núi.
Phía sau núi Úng Trủng là một vùng hoang vu. Lũ quét đi qua, nước lớn từ trên núi đổ xuống nhánh chính của dòng sông đầy bùn, còn những con lạch khác thì chẳng có chút nước nào, giờ bên trong khe núi ngập đầy bùn lầy, bùn lầy hòa lẫn với cỏ nát ngập quá gối, bước đi bước nào là trơn bước ấy, chẳng tìm đâu ra chỗ nào đặt chân. Mọi người vất vả tiến bước, đi vòng qua khe núi, thấy trước mắt hiện ra một khe lạch lớn đầy bùn, “rãnh Mỹ Nhân” trong truyền thuyết chính là đây rồi. Nghe đồn, trong đám bùn lầy nước đọng có một cỗ cương thi thành tinh. Lúc bấy giờ tuy mặt trời đang trên đỉnh con sào, song đứng cạnh rãnh sâu trong khe nũi hoang này, người ta vẫn cảm thấy khí âm rờn rợn, hơi tanh xộc vào mũi.
Chỉ thấy trong rãnh có rất nhiều bùn lầy do cơn lũ vừa quét qua để lại, vô số ếch lớn ếch bé chồng chất bên trong, không dưới mấy vạn con. Dưới ánh mặt trời, bọn ếch lúc nhúc trong hố khiến người ta phải sởn da gà. Đám Tôn Đại Ma Tử hết sức vui mừng, chuyến này được vố hời rồi, ai nấy đều chỉ e số bao gai không đủ chứa hết bấy nhiêu ếch mà thôi.
Mọi người tức khắc hô vang một tiếng, tản ra quanh hố bùn, ai nấy dùng cần dài và gậy gộc xua đuổi khiến bọn ếch trong rãnh lập tức náo loạn lên. Đám ếch không biết sợ người, thấy có động nhảy tứ tung, liền bị bắt bỏ vào bao tải. Mấy chục người cùng ra tay, trong phút chốc đã bắt được hơn một nghìn con ếch.
Sau khi bọn ếch nhảy dạt ra, người ta lập tức chuyển các bao tải xuống núi. Do bắt được quá nhiều, vác một vài lần không hết được, Tôn Đại Ma Tử đành cùng vài người ở lại canh chừng, Trương Tiểu Biện thừa cơ ở lại, đảo mấy vòng xung quanh, cuối cùng cũng phát hiện bên mép rãnh bùn lộ ra một bức tường đá.
Tường đá này được xếp bằng những khối đá lớn, trông ngay ngắn trơn bóng, giống như kiểu đường hầm, tường thành. Trương Tiểu Biện mừng thần trong dạ, lập tức gọi bọn Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng đi xem cho rõ ngọn ngành. Giữa bức tường đá là một cửa đá xiêu vẹo rộng khoảng một trượng. Đường hang trong cửa nằm đúng chỗ râm; ánh mặt trời không chiếu tới, bên trong tối mịt, ẩm thấp, lạnh lẽo, hiềm nỗi cả đám đều chẳng mang theo đá lửa, không thể đốt sáng được.
Tiểu Phượng sợ run người, không muốn thêm rắc rối, liền suy đoán: “Hang này liệu có phải là nơi cương thi lão yêu ẩn nấp? Phải mau dùng đá chặn lên trên mới được.”
Trương Tiểu Biện liền bịa chuyện: “Chắc các người cũng biết rồi đấy, tổ tiên họ Trương nhà ta từng làm quan Cẩm Y Vệ trong Kinh thành, biết rất nhiều chuyện bí ẩn của triều trước.Hôm nay, ta hé cho các người một chuyện nhé.Cái chỗ này không phải tầm thường đâu.Hồi cuối đời Minh, tên thủ lĩnh đảng cướp Trương Hiến Trung từng chôn của tại đây, giá trị lên tới hàng vạn lạng bạc, sau này đến thời Càn Long bọn phỉ Bạch Liên giáo đã đào lên để khởi sự, khiến thiên hạ chấn động. Tới nay, chỉ còn lại một cái động đá này thôi, nếu vừa rồi không có mưa lớn,lũ không quét qua thì cũng chẳng dễ gì thấy được đâu. Không rõ bên trong còn thừa lại đồ vật gì không, nếu chúng ta gặp may, nhặt được một chút gì đó thì cũng là một món hời từ trên trời rơi xuống đấy.”
Bọn Tôn Đại Ma Tử từ nhỏ đến giờ chưa từng rời làng Kim Quan, nghe Trương Tiểu Biện khoác lác thì đều tin sái cổ, tưởng là thật. Tôn Đại Ma Tử nói với mọi người: “Hồi trước có lão thầy bói mù qua làng, mỗ đây bỏ một đồng ra xem một quẻ về đường tài lộc. Lão thầy bói ấy bảo quẻ tiền tài của mỗ gần đây đã động, sắp đến lúc phát, không ngờ đã ứng nghiệm ở đây rồi!”
Cả đám người đều sinh lòng tò mò, lại nghe nói đến hơi đồng, liền để Tôn Đại Ma Tử cầm đầu, huơ huơ cái sào dài vào bên trong động đá thọc vài lượt, định bụng dò xem nông sâu thế nào, chẳng ngờ đầu sào chạm phải một đống mềm mềm nhũn nhũn như chọc vào cơ thể ai đó. Bỗng dưng từ trong động phát ra những âm thanh quái dị, tựa hồ như có ai đó đang ho khạc, Tôn Đại Ma Tử sợ đến bủn rủn tay chân, suýt nữa đánh rơi cây sào. Tiếng ho khạc trong động càng lúc càng dữ dội.
Trương Tiểu Biện nghe tiếng ho dữ trong động, cũng giật mình kinh hoảng. Sao đến đây thì sự tình không giống như lời Lâm Trung Lão Quỷ nói nữa? Lão ta có nói trong động có động vật gì đâu, lẽ nào lão yêu tinh quan tài ấy có bụng xấu xa, muốn lừa Trương Tam gia ta đến đây chịu chết? Trăm mối nghi ngờ nổi lên, tức thời cũng chẳng rõ ra làm sao nữa.
Cả đám xung quanh đều bảo: ”Chắc có cương thi trong động rồi, mau bỏ ếch xuống chạy tháo thân thôi.” Thế nhưng, Tôn Đại Ma Tử lại không hề sợ hãi, gã lắc đầu nói: “Cương thi làm sao mà biết ho? Mỗ thường nghe loài nhím già học cách ho hắng giống người, chắc chỉ có một con nhím già nấp trong đó thôi.”
Gã cậy mình khỏe, lại có ý thể hiện “thân thủ anh hùng, cử chỉ đĩnh đạc” trước mặt đám người làng, liền trợn tròn đôi mắt, đanh khuôn mặt sần sùi lại, tiếp tục thăm dò tình hình trong hang động, định bụng tra xét cho tường tận điều kì lạ bên trong. Nhưng gã vừa mới vào đến cửa động, bỗng nghe tiếng vang như sấm, bên trong hang ẩm thấp tối mò vọt ra hơn trăm con ếch xanh lớn, nhảy vọt qua khe hở giữa đám đông.
Bọn Trương Tiểu Biện sợ bắn mình, vừa mới nhìn thấy bon ếch, liền dùng gậy gộc đánh loạn, đập nát bét mấy con, đuổi bọn còn lại nhảy dạt ra xa. Trong đám hỗn loạn, bỗng nghe Tiểu Phượng rú lên sợ hawi, liên tiếp bước giật lui mấy bước, ngã phịch xuống đám bùn, run lên cầm cập. Thì ra, trong cửa hang có một cái đầu ếch to bằng cái đấu thò ra, trợn mắt nhìn chằm chặp vào Tiểu Phượng kêu rống lên.
Con ếch to bự xuất hiện sau cùng ấy mình lớn như cái cối xay, màu sắc trên lưng chuyển từ lục sang vàng sậm, lốm đốm những vòng tròn đen, trông thoáng qua như có hàng trăm, hàng nghìn con mắt. Con ếch lớn phơi cái bụng trắng như tuyết, ngồi chồm hỗm trước cửa hang, nhìn trừng trừng, miệng kêu những tiếng “ồm ộp” như tiếng trống.
Bọn Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử chỉ sợ cương thi ăn thịt người chứ bình thường vẫn bắt ếch bắt nhái nên không sợ cái loại cóc cáy này? Mặc dù vậy, thấy nó to lớn khác thường, bọn hắn cũng biết rằng đó không phải ếch thường, chỉ sợ giết đi sẽ rước tai vạ, liền tính dùng sào xua đuổi. Chẳng ngờ, sào đâm vào chỗ nào cũng đều bị con ếch lớn dùng chân hất văng đi. Nó cứ ngồi chồm hỗm trước cửa hang đá, mặc cho que gậy tha hồ chọc, vẫn không lùi nữa bước.
Thế nên ai nấy đều càng lấy làm lạ, dường như con ếch đó muốn giữ chặt cửa, không cho ai vào, kiểu này thì mười phần chắc tám là trong động có vàng bạc châu báu của bọn giặc để lại rồi, vậy là cả đám tranh nhau dùng gậy chọc. Con ếch dần dần không cản nổi, trợn trừng hai mắt tức tối lên, bất ngờ há miệng phóng ra cái lưỡi dài màu máu cuốn vào eo của cô ả Tiểu Phượng đang ngồi bệch dưới đất, lôi mạnh về phía mình với tốc độ nhanh như sao băng. Cô nàng nặng đến mấy chục cân mà chẳng khác gì con ruồi con muỗi rơi vào mồm ếch, rồi nó đột nhiên rụt xuống hang, lẩn vào bóng tối.
Cả bọn sợ tái mét mặt, tuy mụ Vương quả phụ có tiếng khắc bạc, tính tình lại chua ngoa đanh đá, tiếng tăm xấu xa, nhưng xét cho cùng nhà mụ cũng chỉ có một đứa con gái là Tiểu Phượng thôi, cô ả còn thường nô đùa với bọn Trương Tiểu Biện từ thuở nhỏ, cả bọn làm sao trơ mắt để con ếch to kéo cô ta vào hang ăn thịt được. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử thấy chuyện chẳng lành, vội vã vọt lên, hét một tiếng lớn rồi cùng đánh vào trong để cứu người.
Trương Tiểu Biện nóng mặt, xông vào cái hang tanh tưởi ẩm thấp, trong bóng tối chẳng trông thây gì, đành cùng Tôn Đại Ma Tử cứ thế tiện tay chộp khắp nơi, nào ngời vừa mới giơ tay lên đã chạm phải làm tóc mềm của đàn bà, sờ xuống mặt chỉ thấy lạnh băng, chẳng rõ sống chết thế nào. Trương Tiểu Biện vội ra sức bám chặt vào tóc, cố sống cố chết lôi ra ngoài hang, bên ngoài còn một đám người, thấy hắn nhô nửa người ra liền hè nhau giúp đỡ, kéo hẳn người Trương Tiểu Biện ra ngoài.
Trương Tiểu Biện vừa thấy ánh sáng liền vội ngồi dậy nhìn thử, khi ấy mới phát hiện ra người đàn bà mình đang nắm tóc kéo không phải là Tiểu Phượng mà là một cỗ cương thi mặc trang phục của triều trước. Cái xác người đàn bà triều Minh ấy cứng đờ như tượng gỗ, tuy toàn thân lấm bùn rêu nhưng vẫn có thể nhận ra khuôn mặt chết không nhắm mắt, xem chừng cũng khá xinh đẹp của mụ ta. Hai búi tóc vấn trên đầu sắp bị kéo tung ra, hàm dưới đã biến mất, dưới vành môi trên chỉ chừa lại cái lỗ sâu hoắm, khiến cho khuôn mặt như bị kéo dài ra rất nhiều, vẻ khủng khiếp đáng sợ khó bút mực nào tả xiết. Y phục trên tử thi vốn bị ngâm nước khá lâu nên đã mục nát cả, từng trận gió núi thổi qua lùm cỏ rậm hoang vu khiến quần áo ngay lập tức hóa thành muôn nghìn mảnh vải vụn bay tứ tán khắp nơi.
Những người còn lại đều sợ muốn chết, kêu thất thanh, phải như Tiểu Phượng nhà mụ Vương quả phụ bị con ếch khổng lồ lôi vào hang ăn thịt, âu cũng là số cô ả như thế chứ biết làm sao, đằng này Trương Tiểu Biện vào đó cứu người, lại lôi ra một cái xác cổi hình mạo đáng sợ như thế, xem ra truyền thuyết về cương thi ở Úng Trủng sơn không phải là lời ngoa, phen này thì đừng hòng mong sống sót nữa.
Trương Tiểu Biện cũng há hốc mồm, một lúc lâu không ngậm lại được, quên phắt luôn cả Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng trong hang còn chưa biết sống chết ra sao, cứ thế nhìn chằm chặp vào cái thây không hàm kia, trong đầu chỉ còn một suy nghĩ: “Lâm Trung Lão Quỷ ấy đúng là liệu sự như thần, cương thi mỹ nhân quả thực giấu trong Úng Trủng sơn. Vinh hoa phú quý cả đời của Trương Tam gia này đều từ đây mà ra cả.”
Thế mới hay: “Vận hết thì vàng còn nhạt sắc; Số hên xác ướp cũng long lanh”. Muốn biết bọn Trương Tiểu Biện, Tôn Đại Ma Tử phúc họa thế nào, chờ xem hồi sau sẽ rõ.
Phần 7: Ếch kêu mưa
Lại nói, Trương Tiểu Biện lôi từ trong hang ra một cái thây phụ nữ không có hàm dưới, bọn người cùng đi bắt ếch trông thấy, đều sợ hãi đến hồn bay phách lạc, ai nấy run lên cầm cập. Thời bấy giờ, cánh người làng hay kháo nhau mấy chuyện: “Ma xác chết, cáo yêu tinh”, đám dân đen thấy cảnh tượng đó, tài nào chẳng sợ? Cả đám lập tức dúi dụi, kéo nhau chạy sạch.
Trong núi hoang còn trơ lại một mình Trương Tiểu Biện lặng người ôm lấy cỗ cương thi. Đối với hắn nghiêng trời lệch đất mà nói, đây chính là món phú quý. Chẳng ngờ Trương Tam gia ta đang nghèo khổ mạt vận lại có thể ”thoát thai nghèo, đổi cốt quý”, trước mắt cuối cùng cũng có cảnh hưởng thụ xung sướng đón chờ rồi.
Ngay lúc ấy, bỗng có tiếng ếch kêu ồm ộp inh ỏi trong hang, Tôn Đại Ma Tử đang ôm Tiểu Phượng bò ra, con ếch lớn trong hang cắn chặt không chịu buông cây gậy trong tay gã. Hai bên đều ra sức kéo, không ai chịu ai.
Gã Tôn Đại Ma Tử này quả thực có cánh tay khỏe hơn người, chỉ thấy gã một tay cắp Tiểu Phượng, một tay kéo ngược đầu gậy, gồng chân giở thế mãnh hổ leo núi, dùng hết sức rướn ra ngoài cửa hang, gân xanh trên tráng gồ hẳn lên, mà chẳng biết buông tay bỏ gậy hất văng con ếch đại tướng kia đi, thấy Trương Tiểu Biện đang ngồi ngơ ngẩn trên đống bùn bên ngoài cửa động liền giật giọng hô hoán hắn tới giúp.
Trương Tiểu Biện bị gã hét gọi liền giật mình sực tỉnh. Hắn nóng máu, chạy lại giúp Tôn Đại Ma Tử kéo con ếch trong hang ra ngoài. Cả hai thấy con ếch to cố sống cố chết cắn chặt cây gậy không chịu buông, hai bên mang của nó không ngừng phát ra những tiếng ộp ộp liên hồi, cặp mắt trợn tròn lên nhìn cả hai, thể hiện sự tức giận tột độ. Nhìn con ếch to lớn quyết chẳng phải thứ ếch nhái tầm thường, Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử dẫu gan to mật lớn cũng không dám tùy tiện ra tay giết hại.
Hai gã thấy bên cạnh là khe bùn, đã làm thì làm cho trót, nghiến răng lấy hết can đảm, thuận thế lôi nó đến bên khe, rồi vừa đẩy vừa đạp, khiến con ếch già xanh vàng lốm đốm rơi xuống bên dưới. Hai bên khe đều là bùn lầy,ở giữa vẫn còn một dòng nước tích lại sau cơn lũ. Con ếch vừa bị đẩy xuống bùn bỗng nhả cây gậy ra, kêu oàm oạp mấy tiếng rồi nhảy vọt ra ngoài mấy trượng, nhào xuống khe nước. Tới khi bọt nước lắng xuống, đã không còn tăm hơi con ếch đâu nữa.
Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử mệt đứt hơi, rốt cuộc cũng đã đuổi được con ếch cụ đó đi, nhìn bốn phía, hóa ra đám người làng cùng đi đã chạy ráo cả. Tiểu Phượng mặc dầu không bị thương nhưng đang sợ tới mức ba hồn bảy vía lên mây, ngồi bệt xuống, răng đánh lập cập, không thốt được câu nào. Lúc ấy, trời chiều đã buông, trên núi hoang chỉ còn lại ba người.
Tôn Đại Ma Tử oán trách đám người làng không có nghĩa khí bỏ chạy trước, đúng là sự đời đen bạc. Thường ngày, trong làng vẫn xưng hô huynh huynh đệ đệ với nhau, đến lúc gặp nguy nan cần huynh đệ giúp đỡ thì chẳng có thằng nào chịu bước lên cùng chống chọi hiểm nguy, Tôn Đại Ma Tử tức tràn hông, lớn tiếng bảo rằng đợi về làng Kim Quang sẽ trị cho chúng một trận. Rồi gã lại bảo Trương Tiểu Biện: “Chỉ có tam đệ của mỗ là nghĩa khí nhất, nói gì làm gì cũng đều chính trực can đảm, xưa nay chưa từng học theo lũ tiểu nhân chỉ biết nói mồm, chỉ có bậc hảo hán thế mới đáng kết giao thôi.”
Trương Tiểu Biện vốn mặt dày,dùi đục còn chẳng như thủng, nghe vậy cũng chẳng hề khiêm nhường, đang định tự tâng bốc, phụ họa với Tôn Đại Ma Tử, xem kiến giải về bậc hào kiệt như thế nào, bỗng nhận ra bầu trời trong núi bắt đầu tố sầm lại. Một trận gió thổi qua, trời đất mịt mù, chớp giật ngoằn ngoèo giữa từng không, sấm nổ ầm ầm, kinh động bốn bề, nước mưa đổ ập xuống như trút. Địa thế Úng Trủng sơn này vốn dốc từ Bắc xuống Nam, hễ mưa lớn là có lũ quét, con lạch trong khe núi bỗng chốc đầy ứ nước mưa đục ngầu, tuôn ra ngoài theo sườn núi, lũ quét cuồn cuộn, tiến động ầm ầm như sấm.
Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử thấy mưa to, lũ quét rất mau, không khỏi biến sắc, vội vã kéo Tiểu Phượng lùi vào bên trong hang ếch tránh mưa. Lúc ấy, Tiểu Phượng cũng đã tỉnh, nghĩ lại những chuyện vừa qua mà lòng vẫn còn chưa hết sợ.
Thấy bên ngoài mưa to như trút, lũ quét dâng cao, nhấn chìm hết cả đường núi, ba người đều không ngớt kêu khổ. Trong núi có truyền thuyết về thần ếch gọi mưa, chỉ e vừa mới vừa rồi đã trót kinh động đến thần nên mới có trận lũ này. Mấy năm nay Úng Trủng sơn khô hạn, trăm dặm quanh vùng đất khô nứt cả, trước cũng thường có lũ quét nhưng ra khỏi núi thì lũ lại phân đổ về các sông suối, may là xưa nay chưa từng đe dọa đồng ruộng xóm làng.
Chỉ khổ có ba người bọn Trương Tiểu Biện bị mưa lũ cầm chân trên núi, không đợi đến lúc tạnh mưa qua lũ thì không thể xuống được núi. Trông trận mưa như nghiêng sông dốc biển, chỉ e cả đêm chưa chắc đã tạnh, đành dọn một chỗ cao ráo, ngủ đêm trong núi đợi đến mai mưa tạnh thì về làng.
Trương Tiểu Biện đột nhiên nhớ đến cái xác còn ở ngoài hang, vội đội mưa chạy ra, lôi lôi kéo kéo vào bên trong. Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng không hiểu hắn định làm gì, cái xác này không có hàm dưới, hình dạng lại quái dị khủng khiếp, để ở trong hang chắc cả đêm sẽ thấp thỏm không yên, bèn hỏi Trương Tiểu Biện: “Chú để cái xác lại làm gì? Chi bằng lẳng xuống khe cho rồi, bằng không đêm khuya sấm chớp, nó hóa yêu tinh tới bắt thì chết…”
Trương Tiểu Biện đương nhiên không thể đáp ứng, có điều nếu kể hết mọi chuyện thì có lẽ đổi lại là hắn, hắn cũng chẳng tin được, cũng may tay họ Trương này đã quen dối trá, liền thuận miệng đáp bừa: “Ma tử ca, Tiểu Phượng tỷ chớ nghĩ Trương Tam ta cô khổ lênh đênh, nghèo đói rách rưới, cả mảnh đất cắm dùi cũng không có, nhưng Trương Tam này hồi nhỏ cũng từng đọc qua mấy cái chữ, tốt xấu gì biết chút lễ nghĩa, liêm sỉ. Cái xác này vốn chon trong hang núi, xưa nay không ai biết đến, nếu chúng ta không tới đây bắt ếch, chắc nó cũng không bị phơi ra ngoài như thế này. Theo tình, theo lý chính là lỗi chúng ta đã kinh động đến tiền nhân, sao còn có thể chỉ nghĩ tới mình mà vứt xác ra ngoài khe cho nước lũ cuốn đi cho được? Nam mô Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát ở trên kia, hai người thực sự cho rằng thần phật trên kia không có mắt hay sao? Những chuyện trái lẽ như thế nhất định không được làm, nếu có làm thì hai người tự đi mà làm, đừng lien lụy đến ta.”
Tôn Đại Ma Tử vốn là người thô lỗ thực thà, còn Tiểu Phượng là cô nhà quê, từ nhỏ đến lớn chưa từng biết sự đời, làm sao nhìn thấu được cái trò ba hoa chích chòe của họ Trương, liền tin những điều hắn nói là thực, lại còn cảm thấy bên cạnh mình có người hiểu biết như Trương Tiểu Biện thật là may mắn, bằng không ắt đã phạm sai lầm lớn rồi. Hai người liền lẩm nhẩm niệm mấy lượt:” Nam mô Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn”, rồi cung kính đặt cái xác vào trong hang. Nhưng quần áo của tử thi vốn đã mục nát hết, lại vừa bị mưa lớn xối cho một trận, bộ dạng trông rất bất nhã, kinh nhất là gương mặt không hàm dưới của cái xác, mặc dù trong hang tối om, nhưng chỉ cần nghĩ đến gương mặt ấy chẳng che chẳng đậy gì ở ngay bên cạnh mình, đã rợn tóc gáy lên rồi. Chẳng còn cách nào khác, Tôn Đại Ma Tử đành chụp hai chiếc bao gai bắt ếch lên trên cái thây rồi mới hơi yên tâm.
Trương Tiểu Biện cười thầm trong bụng, giả tảng giúp Tôn Đại Ma Tử choàng bao tải lên cái xác, rồi tiện tay lần mò lung tung trong hang một lúc, hy vọng tìm thấy thứ gì đáng tiền, miệng vẫn lẩm nhẩm: “Tiền là tiền của dương gian, vật là vật của dương gian, xin mượn tạm chút đỉnh để dung, có gì thì đợi Tiểu Phượng xuống dưới đó sẽ hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho cô...”
Thế nhưng, Trương Tiểu Biện tìm một lúc lâu chỉ thấy toàn rớt dãi của bọn ếch, hết sức xú uế, ngoài ra chẳng thấy bất cứ thứ gì, đành bỏ ý định tìm kiếm, trải vài cái bao tải lên rồi nằm nghe mưa gió trút xối xả bên ngoài cửa hang, trong đầu trăn trở từng lời chỉ vẽ của Lâm Trung Lão Quỷ. Vất vả cả ngày trời trong núi, hắn cũng mệt mỏi lắm rồi, chỉ một lát sau đã chìm dần vào giấc ngủ.
Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng thì không được như Trương Tiểu Biện, cả hai chưa từng ở trong núi hoang miếu nát bao giờ, khó mà ngủ nổi trong cái hang núi ẩm thấp, tanh tưởi này, cứ chợp mắt là mơ thấy nữ cương thi không mồm hoặc bà con than thuộc máu me đầm đìa hiện lên trước mặt. Hai người chốc chốc lại giật mình sực tỉnh, mồ hôi lạnh cứ thế vã ra ướt sung cả người.
Trong long kinh hoảng, bản than họ cũng biết rằng đây là điềm báo chẳng lành, trằn trọc mãi tới khi trời tạnh, mưa ngừng mới vơi đi cảm giác thấp thỏm giày vò tim gan ấy, đợi đến khi cơn lũ quét hơi rút đi, cả ba liền vội vã tìm đường xuống núi.
Trương Tiểu Biện nhân thể bèn nói, nếu đã quay về thì cũng không thể bỏ lại thi thể này ở đây được, phải mang về khu mộ phía sau làng Kim Quan chôn, cho dù chỉ có manh chiếu bó than người đã khuất, thì cũng là làm thiện tích chút ân đức về sau, người làm việc thiện ắt sẽ có thiện báo.
Tôn Đại Ma Tử van Tiểu Phượng mơ thấy ác mộng suốt đêm, trong lòng đang khi lo lắng, thấy bảo làm việc thiện, tích âm đức đồng ý ngay, cùng Trương Tiểu Biện vác cái xác, bước thấp bước cao, đạp bùn lầy lần theo đường mòn xuống núi. Quanh co một hồi, về đến trước cổng làng liền cảm thấy có điều bất ổn, khắp nơi đâu đâu cũng có người chết, mùi máu tanh xộc lên tận trời, cả ngôi làng đã bị loạn binh tàn phá, thi thể ngổn ngang, trước mắt chỉ ngập một cảnh tang thương.
Thì ra có mấy cánh quân Việt khấu ngầm kéo đến bao vây, công phá thành Linh Châu rất gấp. Nhưng thành Linh Châu phòng bị nghiêm mật, đánh gấp không được lại bị quân cứu viện bốn mặt kéo đến vây công. Các lộ lính dõng(1), quan binh kéo đến cứu viện và cả đám Việt khấu đang tiến đén hợp lực công thành đều di chuyển về đêm, không hẹn mà gặp nhau cùng một chỗ. Trận kịch chiến lan đến tận làng Kim Quan. Sau trận huyết chiến, thôn làng đã hóa thành bình địa. Vào lúc ấy, a số dân làng Kim Quan đang say giấc ngủ, cũng có vài người đang bàn cách vào núi tìm tung tích của bọn Tôn Đại Ma Tử van Tiểu Phượng, đột nhiên nghe pháo nổ binh gào khắp nơi, định mở cửa chạy trốn nhưng bốn bề tám hướng đã bị loạn quân vây kín, nam phụ lão ấu cả làng không ai thoát chết.
Bọn Trương Tiểu Biện vì lũ quét không về được nên may mắn thoát nạn. Nếu cùng người làng bắt ếch trở về, có lẽ đã gặp phải họa binh đao toi đời từ lâu rồi. Mắt nhìn bà con thân thuộc đều chết cả, nhà cửa, ruộng vườn tan nát, Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng choáng váng ngất lịm đi.
Trương Tiểu Biện cũng lặng đi một lúc lâu, lòng thầm niệm phật Tổ từ bi, nếu không có lão thần tiên trong mộ mách bảo Tam gia thì đến mười cái mạng cũng không thoát nổi. Quá nữa thi thể trong làng đang bị chó tha quạ rỉa, cảnh tượng thảm không nỡ nhìn, liếc qua một lượt đã thấy hơi lạnh chạy dọc sống lưng, quay lại thấy Tôn Đại Ma Tử van Tiểu Phượng ngất lịm trên đất, hắn vội vã lay họ tỉnh lại. Hai người vừa tỉnh đã gào khóc xé trời, thật là “tinh tú không trung đều rớt lệ, càn khôn nhật nguyệt phải than dài”.
Khóc đến lúc lả người đi, ba kẻ sống sót nhớ ra là phải thu liệm di hài của người thân, cầm gạch đá, gậy gộc đuổi lũ quạ diều, chó hoang đi. Song người chết quá nhiều, cuối cùng cũng chỉ tìm thấy xác của Vương quả phụ và một đứa em gái của Tôn Đại Ma Tử, rồi đào một cái hố ở gần đấy vùi xuống, còn lại thì thực sự không thể chôn cho hết, đành mặc cho chó hoang rỉa thành xương trắng. Hai người đứng trước mộ lại khóc lóc thêm một hồi nữa.
Trương Tiểu Biện ngẩng đầu nhìn trời, thấy mặt trời đã xế bóng, ở lại làng Kim Quan đã hóa thành một đống đổ nát này cũng không phải chuyện hay. Cuộc đại chiến qua đi, bọn trôm cướp trong vùng nhất định sẽ thừa cơ đến cướp bóc vào đêm, dẫu là quê hương làng xóm thì cũng không thể lưu luyến thêm được nữa, hắn liền hỏi Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng từ nay về sau sẽ tính toán thế nào.
Tôn Đại Ma Tử nói: “Mặc dù mỗ có vài người họ hàng xa ở ngoài tỉnh, nhưng đã lâu không qua lại nữa rồi, giờ thì mỗ đây đúng là kẻ tứ cố vô thân rồi. Cũng may là còn có sức khỏe hơn người, lại biết vài ngón côn bổng quyền cước, có chí đầu quân giết giặc, biết đâu đoạt được chút công danh bổng lộc nơi đầu thương mũi giáo, khôi phục được dòng dõi họ Tôn nhà mỗ.” Gã cũng khuyên Trương Tiểu Biện cùng đi tòng quân. Đang lúc thiên hạ đại loạn, ở Linh Châu ngày nào cũng mộ binh, dẫu không trở thành quân quan thì chí ít cũng kiếm được miếng cơm bỏ bụng, còn hơn phải lưu lạc khắp nơi xin ăn.
Trương Tiểu Biện nghĩ bụng: “Hảo hán không đi lính, thép tốt chẳng làm đinh. Bây giờ đương khi thế quân Việt khấu đang thịnh, diệt được cánh quân này lại xuất hiện hai cánh quân khác. Triều đình điều cả đại quân đến mà cũng khó lòng tiêu diệt, cứ trận này rồi trận khác, dẫu ai thắng ai bại thì cả hai bên đều chịu thương vong, chẳng lẽ Trương Tam gia ta ngốc đến mức đi theo để chúng đẩy vào nơi đầu tên mũi đạn hay sao?” Nghĩ đoạn, hắn lắc đầu không nhận lời.
Tôn Đại Ma Tử không khuyên được Trương Tiểu Biện cùng tòng quân, lại thấy Tiểu Phượng cứ khóc mãi không thôi, liền nói: “Tiểu Phượng, không rõ cô định đi đâu về đâu? Trong cơn binh loạn thế này thân gái dặm trường sao tiện? Chúng ta đều là chỗ đồng hương thân thuộc, mỗ van Trương Tam sẽ đưa cô đi.”
Trương Tiểu Biện không đợi Tiểu Phượng lên tiếng đã cất lời chen vào: “Cô ả còn đi đâu được nữa? Chi bằng cùng nhau vào thành Linh Châu. Vương quả phụ lúc sống có một lão tình nhân già trong thành, may ra lão nhớ chút tình xưa nghĩa cũ sẽ nhận cô ta làm con gái.”
Tiểu Phượng nghe thấy càng khóc tợn, thiếu chút nữa là nghẹn thở, cao giọng chửi Trương Tam là thằng trôm yểu mệnh thất đức. Cô ả giờ không còn thân thích, nếu giờ vào thành nương nhờ cái hạng thấy lợi quên nghĩa ấy , nhất định sẽ bị bán làm gái lầu xanh. Trong lúc loạn lạc này, đầu thai làm người thực cũng chẳng hay ho gì, chẳng bằng một dao mạng thân cho xong, xuống dưới với mẹ có khi còn hơn phải sống cô khổ trong cuộc đời này.
Trương Tiểu Biện nghe Tiểu Phượng mắng mình nhưng không nổi giận như thường lê, trái lại, hắn thấy trong lòng có chút chua xót. Hắn hiểu rõ thế nào là cảnh khổ sở lưu lạc, tứ cố vô thân, thấy Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng qua một đêm đã trở thành kẻ bơ vơ, không khỏi sinh lòng đồng cảm, nghĩ thầm: “Thời bây giờ muốn làm ăn mày xin ăn cũng chẳng dễ, hai người này không biết ngón bắt gà trộm chó, nếu để tự kiếm đường sống ắt một người sẽ chết trong đám loạn quân, một người sẽ chết đói hoặc bị bán vào kỹ viện. Trương Tam gia ta sắp tới sẽ có ruộng vườn sải cánh cò bay, gia son mặc cho trộm khuân hoài không hết, cớ chi mà không cứu vớt chúng một phen. Gã Tôn Đại Ma Tử vai u thịt bắp rất hợp làm bảo tiêu cho phủ đệ của Tam gia ta, còn ả Tiểu Phượng thì... thổi bếp, nấu cơm, quét nhà, giặt áo, bổ củi, nuôi chó, mấy cái việc vặt đó giao cho ả là hợp, làm không xong thì không cho ăn cơm. Con bà nó chứ, không đem bán ả vào nhà thổ là Tam gia ta đã phát lòng Bồ Tát đại từ đại bi lắm rồi
Nghĩ đến thế, Trương Tiểu Biện liền kể cho hai người nghe câu chuyện từ khi lạc vào mộ Kim Quan, gặp phải bọn trộm mộ ra sao, gặp Lâm Trung Lão Quỷ, bị lão bắt đếm mèo thế nào, rồi bảo: ”Lâm Trung Lão Quỷ thực là bậc thần cơ diệu toán, nếu không có lão nhân gia ấy mách bảo, bọn ta chắc chắn không thể thoát khỏi kiếp nạn binh đao đêm trước. Lão nhân gia còn bảo, số mệnh Trương Tam gia ta đã định sẵn, sẽ trở nên giàu có sung sướng, vinh hoa phú quý ngất trời, nên đã chỉ ra cho ta con đường đại phú đại quý. Tam gia ta bình sinh rất sẵn lòng thành chuyên cứu giúp người tốt, nghĩ chúng ta đều là đồng hương, nếu hai người sẵn lòng giúp ta thành công, nhất định lúc ấy có phúc để cùng hưởng.”
Tôn Đại Ma Tử định đầu quân làm lính dõng, thực ra cũng vì cực chẳng đã chứ ai chẳng biết binh đao hung hiểm nhường nào. Bấy giờ nghe Trương Tiểu Biện nói thế, chứng cớ đều đã rành rành, tính mạng của gã quả thực đã may mắn giữ được, hơn nữa, cách đó không lâu, thầy bói cũng bảo quẻ giàu sang của gã đang vượng nên càng tin lời Trương Tiểu Biện hơn nữa, gã liền chắp tay nói: “Thôi thì nhờ cả vào hiền đệ, nhưng không biết rốt cuộc con đường đại phú đại quý ấy là thế nào?”
Trương Tiểu Biện chỉ vào cái xác trong bao tải, giả bộ thần bí nói: “Phú quý đều ở trong đó, có điều thiên cơ bất khả lộ, hai người chớ hỏi nhiều, chỉ cần cẩn thận một chút, theo ta rồi tùy cơ hành sự là được.”
Có lời rằng: “Rồng xanh cọp trắng đồng hành; Phen này chưa biết dữ lành ra sao.” Muốn biết vận mệnh của bộ ba thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
...............................................................
bạn đang đọc truyện tại chúc các bạn vui vẻ
....................................................................
Phần 8: Thành Linh Châu
Lại nói, làng Kim Quan chỉ trong một đêm đã bị binh hỏa tàn phá, Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng tuy thoát nạn nhưng đã thành kẻ tứ cố vô thân, gan ruột rối bời, trong cái thời thế nước lửa hỗn loạn này, biết tìm đường sống ở đâu?
Bỗng nghe Trương Tiểu Biện sẵn lòng đưa họ đi tìm sự giàu sang, thực như kẻ chết đuối vớ được cọc, vui sướng vô cùng, liền nhất nhất tin theo lời hắn.
Tôn Đại Ma Tử cảm kích đến nghẹn ngào: “Mỗ thường nghe cha nói, đời nay người ta giậu đổ bìm leo là nhiều, chứ mấy ai biết nhường cơm sẻ áo. Đời này mỗ kết giao được người nghĩa khí như huynh đệ, thực không uổng chút nào.”
Trương Tiểu Biện biết rằng, lúc này nơi này cũng không nên nhiều lời, liền bảo hai người kia: “Muốn tìm sự giàu sang phú quý ấy, trước mắt hẵng còn mấy việc lớn phải làm. Bây giờ đã xế chiều rồi, chúng ta chớ dùng dằng lâu, mau lên đường ngay mới được.” Nói xong, liền bảo Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng gạt nước mắt rồi cả ba cùng lấy lại tinh thần, bới tìm chút thức ăn, tiền bạc trong đống người chết, gói gém mang theo phòng thân.
Trương Tiểu Biện lại nói, việc cần làm trước tiên là bí mật đem cương thi mĩ nhân vào trong thành Linh Châu. Tôn Đại Ma Tử nghĩ bụng, nếu đã là lời thần tiên truyền dạy để tế bần cứu khổ, bọn người thế tục chúng ta vốn ngu độn, làm sao mà hiểu biết hết được đạo lí bên trong? Bất tất nghĩ ngợi nhiều, cứ theo thế mà làm là được, vả lại Trương Tiểu Biện đã được chân truyền, hăn bảo thế nào thì là thế ấy.
Nghĩ vậy gã liền cùng Trương Tiểu Biện hiệp lực nhét cương thi mỹ nhân vào trong bao gai, tìm một cỗ xe không có vật kéo. Gã đi đằng trước nai lưng kéo xe, Trương Tiểu Biện và Tiểu Phượng đi đằng sau đẩy giúp, lần đường đi về dốc núi sau làng. Đến đó, cả ba không kìm được, cùng dừng lại, ngoái nhìn cố hương tường siêu ngói đổ rồi mới nuốt nước mắt lên đường.
Rời làng không bao lâu, chợt nghe phía trước có tiếng người kêu ngựa hí, tiếng quân reo hò càng lúc càng gần tựa hồ đang có đại quân trẩy qua. Ba người sợ hãi, vội vã nằm phục vào vách núi nhìn trộm xem sao.
Trong bóng tà dương đỏ như máu, chỉ thấy từng tốp Thái Bình quân chít khăn đỏ đang tháo chạy từ phía thành Linh Châu. Đám quân sĩ sau trận huyết chiến ai nấy máu nhuộm đỏ chiến bào, đầu thương mũi giáo còn đọng vết máu chưa khô, cờ quạt y phục đều nhuốm đầy khói đen. Đoàn quân rồng rắn đi qua, đội ngũ kéo dài tít tắp, giáo dựng như rừng, đao tuốt như cỏ, nhộn nhạo cả một vùng núi hoang, đi đến đâu núi non tưởng chừng rung động, trời đất bỗng hóa thành một không gian nồng nặc mùi máu tanh.
Mãi khi trời tối hẳn, đoàn người ngựa dưới chân núi mới lục tục qua hết, xa xa trông thấy vô số ngọn đuốc ngoằn ngoèo như một con rồng lửa đang chuyển động về phía Tây. Bọn Trương Tiểu Biện ngước nhìn đoàn quân Việt khấu đi xa, thầm tặc lưỡi, từ thưở bé tới giờ mới trông thấy cảnh tượng người ngựa đông đảo đến vậy.
Ba người thấy thế giặc rất lớn, tuy bại mà không loạn, chẳng bao lâu ắt sẽ quay lại, không rõ thành Linh Châu còn giữ được bao lâu nữa, lại lo gặp phải loạn quân, sơn tặc nên không dám đi đường lớn, đành lần theo những lối mòn trong núi để đi tiếp. Thôn làng hầu hết đã bị tàn phá cả, dọc đường đi không có lấy một ánh lửa nhà dân.
Đẩy xe cả đêm đến tảng sáng, trong lúc hoảng loạn, cả ba không phân biệt được phương hướng, đang chưa biết đã đến được nơi nào thì bông thấy nhiều thi thể nằm ngổn ngang trong khu rừng trước mặt, ước tính có đến mấy trăm cái xác. Nhìn trang phục thì đều là người dân ở các làng xung quanh, có lẽ trong lúc tránh nạn gặp phải loạn quân thảm sát. Bọn Trượng Tiểu Biện vốn đã như chim sợ cành cong , nay lại thấy khắp núi hoang phơi toàn thi thể đầu một nơi mình một nẻo, tim gan lòng ruột đổ đầy mặt đất, cả ba hết sức sợ hãi, chỉ muốn nhanh chóng vòng đường mà rời khỏi chốn này.
Chẳng ngờ mới chỉ đứng xa liếc nhìn mấy cái, cả ba đã phát hiện ra đám thây xác này có điều quái lạ. Thì ra bất luận, nam phụ lão ấu đều bị lột quần, phơi hạ bộ lộ thiên, giữa hai đùi máu thịt bầy nhầy, rõ là bị người ta dùng dao cắt vào, thảm trạng không sao tả xiết. Tiểu Phượng vội bịt chặt mắt không dám nhìn.
Tôn Đại Ma Tử cũng thấy tim đập thình thịch, hạ giọng hỏi Trương Tiểu Biện: “Này tam đệ, chẳng lẽ bọn Việt khấu giết xong... còn cắt đi cả cái của nợ ấy à? Mà sao đến đàn bà con gái cũng bị cắt hết cả đi? Thủ đoạn này quá sức tàn nhẫn, trời có thiên đạo, người còn có vương pháp, làm thế này không sợ trời phạt ư...?”
Trương Tiểu Biện từng phiêu bạt bên ngoài vài năm, sự hiểu biết hơn hẳn Tôn Đại Ma Tử, hắn đánh bạo nhìn ngó vào rừng, đoán được đại khái sự tình, liền ra vẻ lão luyện nói: “Hành vi này, không giống thủ đoạn của bọn giặc cướp tầm thường. Ta từng nghe lão đạo sĩ quá cố, thầy của ta nói, trên đời này có một tà giáo tu luyện môn Kim Cương Thiền. Giáo phái này hết sức thần bí, lại có cả nam nữ tụ tập. Bọn chúng chuyên giết người lấy hạ bộ của nam và nữ phối thành một cặp, thêm thủy ngân, đan sa, dược thảo, luyện thành một loại đan dược, uống vào có thể đắc đạo. Quan phủ hễ bắt được giáo đồ luyện đan sa tà thuật này đều đem ra lăng trì ở chợ, nhưng cấm mãi mà vẫn không được. Xem tình hình này, có khả năng là đám gian nhân đó nhân lúc chiến loạn ngầm làm những việc thất đức. Vết dao trên mấy cái xác hẵng còn mới, chỉ e chúng vẫn còn lẩn khuất đâu đây, nếu gặp phải chúng, chúng ta ắt dính độc thủ, chi bằng ba mươi sáu chước, chước chuồn là hơn.”
Tôn Đại Ma Tử mặt xanh như chàm đổ, lè lưỡi, nói: “Mẹ ơi, đến thịt thối của người chết nó cũng xơi được?” Gã cùng Trương Tiểu Biện vội kéo xe lừa, lôi Tiểu Phượng trốn vào rừng rậm.
Đi được một lúc, ngẩng lên nhìn, cả bọn thấy ngoài cánh rừng là một ngọn núi lớn, chính là ngọn Úng Trủng bắt ếch hồi hôm. Trận mưa to, lũ lớn đêm qua lại khiến vô số ếch trong núi chui ra, nhảy nhót khắp nơi.
Trương Tiểu Biện đang lo tìm cách đưa cương thi vào trong thành Linh Châu, chợt thấy lũ ếch trên núi, hai mắt sáng lên, lập tức nghĩ ra cách, liền cười rộ, bảo: “Chẳng sợ vận không tới, chỉ sợ giờ mới tới!” Lập tức, hắn bảo Tiểu Phượng trông xe rồi cùng Tôn Đại Ma Tử xắn quần, vén áo, đạp bùn lầy lên núi bắt đầy một bao tải ếch rồi mới quay về, tìm lối đi tiếp đến thành Linh Châu.
Đám ba người trông vừa thê lương vừa sợ hãi, đói nuốt lương khô, khát vục nước suối, lẫn tránh mãi mới tới được bên ngoài thành Linh Châu, tìm đến một cái miếu thổ địa vắng lạng để nghỉ chân. Trước tiên, Trương Tiểu Biện đến gần cổng thành do thám tình hình, xem có vào thành được không. Linh Châu là một tòa thành hết sức to lớn, binh nhiều lương đủ, nằm ở nơi trọng yếu của cả đường thủy lẫn đường bộ, các tầng lớp sĩ nông công thương tập trung đông đảo. Bên trong thành là cả một thế giới phồn hoa, đúng là nơi cá, rồng vùng vẫy biến hóa, là đất mà các binh gia xưa nay quyết giành cho được. Trong thành phòng thủ hết sức kiên cố, trong thành có hai lớp tường thành, bốn cửa đều dựng pháo đài, xây địch lâu kiên cố. Khi ấy, trên mặt thành cung trương, kiếm tuốt, phòng bị rất nghiêm mật.
Từ khi Việt khấu đến xâm phạm đã có ý đánh tòa thành này. Chúng tụ tập xung quanh thành tạo thành thế hợp vây, đường giao thông thủy bộ đều bị cắt đứt, các nhà buôn bán và dân chạy loạn đều phải tránh vào trong thành, không chạy xa được. Hai hôm trước, quân thủ thành đã đánh bại đợt vây công của Việt khấu, liệu chừng quân giặc mới thua, quân chủ lực lại thiếu lương thảo tiếp tế, trong thời gian ngắn chắc chưa thể quay lại, bởi thế nhân lúc thanh thiên bạch nhật, thành Linh Châu mới mở nửa cổng cho dân chúng ra vào, chỉ có điều các cổng đều cắt quan Bả tổng đốc thúc lính dõng khám xét kĩ lưỡng mọi người ra vào thành. Song, chẳng rõ vì sao, khám người vào thành đã đi một nhẽ, đằng này đến người ra ngoài thành cũng bị lính canh cửa lục soát từ đầu tới chân.
Trương Tiểu Biện nấp ở ngoài thành nhìn trộm, trong lòng đã có tình toán, ước đoán rằng có thể trà trộn vào thành, liền vội vã quay về tìm Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng, đem cương thi mĩ nhân lấm bùn be bét và hơn một trăm con ếch nhét vào cùng một bao tải, rồi đẩy lên xe lừa. Cả ba lấm lét trà trộn vào đám tiểu thương, chầm chậm tiến về phía cổng thành.
Tôn Đại Ma Tử và Trương Tiểu Biện đều là kẻ to gan lớn mật, chuyện này là đã quyết tâm là làm cho bằng được, cứ coi chuyện sống chết nhẹ như lông hồng là xong. Chỉ riêng Tiểu Phượng non gan, càng đến gần cổng thành chân càng mềm nhũn ra, nghĩ bụng: “Mang một cái xác triều trước vào thành, ngộ nhỡ trong đám lính dõng có đứa tinh mắt phát hiện ra, chắc hẳn sẽ bị bắt ngay tại trận. Mình là con gái chưa chồng, không hiểu biết gì, làm sao chịu nổi sự giày vò, lục vấn của bọn công sai?”
Rồi ả lại nghĩ: “Mà huống hồ nếu bị giả đến công đường tra khảo, không biết cung khai thế nào, việc này rõ ràng là chủ ý của thằng quỷ Trương Tam, có trời mới biết nó tính đủ trăm mưu ngàn kế mang cái cương thi này vào thành để làm gì... ” Cô ả càng nghĩ càng sợ, bước chân đi cũng chẳng vững nữa.
Đã là phúc thì không phải họa, đã là họa thì tránh cũng không được, lúc ấy muốn quay lại thì cũng đã muộn mất rồi. Bao tải lùng nhùng chất trên xe lừa van ba người đầu bù tóc rối đã khiến cho đám lính dõng giữ thành chú ý từ lâu. Viên đội trưởng dữ dằn như một tên hung thần nắm chặt yêu đao, hùng hổ chỉ mặt quát: “Ba người chúng mày dừng lại cho lão gia, định vào thành làm gì? Trong bao tải có cái gì?”
Trương Tiểu Biện thấy thế thầm kêu khổ: “Chuyến này đúng là bị con tiện nữ nhà Vương quả phụ hại chết rồi.” May là trong cái khó ló cái khôn, hắn bạo gan giữ chặt cẳng tay của Tiểu Phượng, làm bộ ngờ ngệch, vái chào mấy tên lính dõng đang đi tới rồi nói: “Các vị quan gia vất vả quá, bọn tiểu nhân xin thỉnh an! Bọn chúng tôi đều là dân sống ở vùng Úng Trủng sơn, hôm qua nhân trên núi mưa lớn, bắt được nhiều ếch, đúng lúc đó chị của tiểu nhân bị trúng gió, giờ bệnh đã trầm trọng lắm rồi khó mà sống nổi, nên muốn đem ít ếch tươi vào thành đổi chút tiền bạc, tìm đến thầy lang bắt mạch, bốc vài thang thuốc, xin trưởng quan cho đi qua.”
Nói xong, Trương Tiểu Biện ngấm ngầm bóp mạnh vào tay của Tiểu Phượng. Cô ả đang hồn xiêu phách lạc, mặt mũi xanh lét, toàn thân run rẩy, trán đổ mồ hôi, cánh tay lại bị bóp đau, không kìm được phải cắn chặt môi, mặt nhăn nhó, quả đúng triệu chứng của người bị bệnh, dáng dấp tiều tụy.
Đám lính dõng giữ thành nhìn ngó trên dưới, thăm dò bọn Trương Tiểu Biện một hồi, thấy cả ba chừng mười sáu, mười bảy tuổi, áo quần lam lũ, giống như bọn ăn xin, chứ không như bọn thám tử của Việt khấu cử đến. Chúng liền giơ tay ấn ấn vào bao tải, rút dao rạch ra xem, thấy mùi hôi tanh xộc lên mũi, bên trong toàn là những con ếch còn sống.
Trương Tiểu Biện chỉ lo chúng khám một lúc nữa sẽ lộ chân tướng, liền ngầm nháy mắt với Tôn Đại Ma Tử. Gã họ Tôn tuy thật thà nhưng không hẳn ngốc, cũng biết lúc này không phải chuyện chơi, vội tóm một con ếch to mập, hôi thối, đang dở sống dở chết, dâng lên một tên quan: “Trưởng quan lão gia giết giặc vất vả, ăn một con ếch cho bổ thận tráng dương, khí huyết trên dưới lưu thông... ”
Tên đội trưởng vốn là người trong Bát Kỳ lập tức bịt mũi xua tay: “Bọn nô tài thối tha, không biết tốt xấu gì cả, ai thèm mấy con cóc thối của chúng bay. Coi chừng! Làm bẩn quan phục của cha chúng mày thì bay mất đầu. Đừng lằng nhằng làm tắt đường nữa! Mau cút đi... ” Nói xong, hắn đá một cái vào mông Trương Tiểu Biện, chửi: “Lằng nhằng!”, rồi cho cả ba đi vào, không thèm để ý nữa, tiếp tục cùng thủ hạ tra xét nhưng người dân đang ra vào thành.
Ba người bọn Trương Tiểu Biện như cá lọt lưới, vội vã trà trộn vào trong thành. Sau trận đại chiến, trên nhà dân, trên tường thành đầy vết đạn, có thể thấy sự ác liệt của trấn đánh mới rồi, nhưng người dân vẫn phải tiếp tục duy trì kế sinh nhai nên quá nửa các cửa hàng vẫn mở cửa bình thường, trên phố người qua lại nhộn nhịp.
Trương Tiểu Biện sợ trong thành nhiều người nhòm ngó làm hỏng đại sự, không dám đi vào chỗ đông, chỉ lần theo những ngõ nhỏ vắng vẻ. Qua mấy đường ngang ngõ tắt quanh co, cả bọn lạc vào một ngõ cụt, phía trước là một bức tường cao chắn lại, hai bên không có cửa nẻo của nhà dân, lối đi rất chật hẹp, xe lừa không thể xoay sở được. Ba người vừa sợ vừa mệt, đành tạm ngồi nghỉ chân trong ngõ.
Tôn Đại Ma Tử định hỏi Trương Tiểu Biện mại hiểm mang cái xác vào thành rốt cuộc là để làm gì, chưa kịp mở mồm thì thấy hai bên đầu tường chớp lên những bóng đen. Gã những tưởng là bọn trộm đang băng tường tháo chạy, vội siết nắm đấm đứng bật dậy. Vừa định thần nhìn, toàn thân gã đã toát mồ hôi lạnh: “Chẳng lẽ lọt vào ngõ mèo rồi sao? Đâu ra mà lắm mèo thế?”
Thì ra, trên đầu tường, trong góc ngõ, không hiểu sao xuất hiện mấy trăm con mèo hoang, con nào con nấy gầy guộc, xương xẩu, chớp chớp đôi mắt mèo nhìn như nuốt lấy bọn Trương Tiểu Biện. Không rõ chúng đang có âm mưu gì mà thần sắc lộ rõ vẻ ác ý.
Lời tác giả: Thành Linh Châu là một tòa thành cổ đã có lịch sử nghìn năm. Từ đời Đường tới nay, ở đây sản sinh ra rất nhiều mèo, nên còn có tên gọi khác là “Miêu Nhi thành”. Trong thành có rất nhiều mèo hoang, lang thang khắp đầu đường cuối ngõ, ước tính hàng vạn con. Tới nay, trong thành vẫn còn một tòa Miêu từ rất thiêng, vì vậy, tuy bọn mèo hoang thường hay ăn vụng cá thịt nhưng người dân bản xứ không ai dám đắc tội với đám ông mèo, bà mèo đó.
Trương Tiểu Biện thấy thế nguy, vội vã hạ giọng gọi Tôn Đại Ma Tử van Tiểu Phượng: “Mau đem xác chết trong bao ra cho mèo ăn đi!” Hai người kia nghe thấy thế, lặng người đi, ấm ức: “Khổ cực mãi mới lén mang được cương thi mỹ nhân này vào trong thành Linh Châu, dọc đường gặp biết bao nhiêu nguy hiểm, bao nhiêu kinh hãi, rốt cuộc lại mang cho lũ mèo giặc này ăn ư?”
Có lời rằng: “Lượng cả, phúc cũng lớn; Kế thâm, họa cũng sâu.” Rốt cuộc, Lâm Trung Lão Quỷ bảo Trương Tiểu Biện vào thành Linh Châu để làm gì, xem hồi sau sẽ rõ.
Phần 1: Kim Ngọc Nô
Nói đến đoạn bọn Trương Tiểu Biện ba người chẳng biết trời cao đất dày đem cương thi mỹ nhân trà trộn vào thành Linh Châu, kết quả là vừa vào thành đã bị lạc vào một ngõ cụt trong mê cung đường ngang ngõ cắt. Không ngờ lối ngõ cũ u ám vắng người này chính là địa bàn của đàn mèo hoang. Trong phút chốc cả ba người bị đàn mèo vây chặt. Chớ xem thường một hai con mèo không dọa được ai, nhưng một khi chúng đã tụ tập thành bầy, nhao nhao đến như ong thì quả thực khiến người ta sợ hãi.
Thành Linh Châu hay còn gọi là Miêu Nhi thành này, sản sinh nhiều nhất là mèo khoang. Gọi chúng là mèo khoang không có nghĩa lông trên người chúng rực rỡ đủ màu, mà những con chỉ có hai màu lông đen trắng hoặc vàng trắng pha tạp cũng đều thuộc giống này. Thảng như có những con mèo thuần một mèo lông thì chắc chắc đều từ ngoài thành vào cả, mèo gốc Linh Châu không bao giờ như vậy.
Chuyện này người địa phương ai ai cũng biết, Trương Tiểu BIện đã nhiều lần vào thành Linh Châu nên cũng hiểu được phần nào. Hắn biết đây chính là ngõ MIêu Nhi, ngõ của bầy mèo hoang trong thành. Bức tường cao chắn lối phía trước kia, chắc hẳn là tường hậu của ngôi Miêu Tiên từ nổi tiếng linh thiêng trog truyền thuyết. Người dân quanh vùng không cúng tiên cáo, tiên cầy gì chỉ thích vào trong miếu cầu xin tiên mèo phù hộ, ban phúc, lộc, thọ, gặp phải chuyện lớn chuyện nhỏ đều đến ngôi miếu này cầu nguyện, cũng là do phong tục bản xứ mà ra, nên thường có ngày mang thịt, bánh bao ném vào sau miếu cho mèo ăn, coi như làm việc thiện. Đám hòa thượng và đạo sĩ trong thành Linh Châu cũng không được người dân trọng vọng bằng dám mèo hoang.
Lâu dần, những con mèo ăn vụng, mèo lười vô chủ trong toàn thành đều tề tựu xung quanh Miếu Tiên từ. Buổi sáng chúng nằm ngủ phơi nắng, tỉnh dậyt hì ăn cá thịt do bọn thiện nam tín nữ cúng dường. Bọn mèo này được dám ngu dân nuông chiều thành quen, để rồi trogn toàn thành chẳng còn con mèo khoang nào chịu bắt chuột ban đêm nữa. Bởi thế, ngoài mèo ra, thành LInh Châu còn nhiều chuột hơn. Dịch chuột đã sắp thành thảm họa đến nơi.
Thói thường có thịnh ắt có suy, mấy năm gần đây, thiên tai địch họa liên miên, lòng người bất an, phong tục dần bị lãng quên, hầu hết dân chúng đều không đủ cơm áo mặc, chạy ăn từng bữa, chẳng mấy ai còn quan tâm đến việc cung phụng cho lũ mèo ông, mèo bà này. Hương khói trong đền miếu, đạo quán đều ảm đảm chưa từng thấy.
Khổ cho lũ mèo lười nhác háu ăn, trong ngôi đèn cổ này, con anof con nấy đói đến vàng mắt, nằm bẹp trên xà, trên tường kêu ‘meo, meo’ thảm thiết, khó khăn lắm mới thấy ba người kéo cỗ xe lừa vào trong ngõ, chúng liền tưởng là tín chủ đến dâng hương cúng tế. Theo thói thường, lát nữa ắt sẽ có vật lễ tung ra, để bọn đồ tử, đồ tôn của Miêu Tiên gia nhà chúng được một bữa no nê.
Chẳng biết tại sao ba người nọ cư ngơ ngác, vào đây đã lâu rồi mà cứ ngồi trơ không nhuc nhích, cũng chẳng bày bánh trái thịt thà ra. Đám mèo bực lắm rồi, lòng như lửa đốt, mồm miệng nhỏ nước dãi, bèn sấn đến gần cỗ xe lừa mỗi lúc một gần hơn.
Trong lòng Trương Tiểu Biện xoay xở rất nhanh, dã mau chóng tìm ra cách. Thấy bầy mèo tỏ vẻ không lành, lại nhớ đến truyền thuyết từng nghe được trong thành, hắn đã hiểu tám chín phần sự thể. Bọn mèo phàm ăn này đến đòi ăn uống đây mà! Lúc này nếu không xua chúng đi, một khi để làm ầm lên, ắt sẽ kinh động đến đám lính dõng đi tuần thì cả ba bọn người giấu cái xác chết mang vào thành dù không bị quan phủ nghi là gián điệp của Việt khấu thì cũng bị coi là đạo tặc đào trộm mộ. Tới lúc bị giải tới chốn nha môn tra khảo thì Trương Tam gia ta dẫu có mọc thêm một trăm cái miệng cũng không biện bach nổi.
Trong đầu nảy ra một ý, hắn ngay lập tức nhớ đến đám ếch béo trong bao gai, vội gọi Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng. Hắn vốn định bảo: Mau đem ếch trên xa cho mèo ăn! Nào ngờ trong đầu mải nghĩ tới cương thi mỹ nhân có thể đổi lấy nửa đòi sau phú quý giàu sang, cuống quá thành nói nhầm: Mau lôi cương thi ra cho mèo ăn!
Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng vẫn đinh ninh phải đem cương thi cho mèo ăn. Thịt cương thi gọi là “mãn hương”, nghe đâu cũng có người ăn nhưng chưa ngeh nói mèo ăn được, hơn nữa, cả bọn vất vả cực khổ mãi mới đem được vào trong thành, đều là nghe theo lời khua môi múa mép của Trương Tiểu Biện, chứ thực sự chẳng hiểu rốt cuộc hắn muốn giở trò gì, nhất thời bấn loạn, đứng ngây ra không biết nên làm gì cho phải.
Thấy hai người kia đờ ra không làm gì, Trương Tiểu Biện cuống lên vội bật dậy, Tam gia ta lại phải đích thân động thủ vậy. Hắn nhảy phắt lên xe mở bao tải, ném vung những con ếch béo đang bị nhồi đến dở sống dở chết ra khắp ngõ. Bầy mèo ngửi thấy mùi tanh, lập túc sang mắt, nhe nanh, kêo “ngao, ngao”, xông tới vồ bọn ếch, cắn xé.
Nhân lúc đàn mèo đánh chén lũ ếch, Trương Tiểu Biện lại bỏ cái bao cương thi vào bao tải, bảo Tôn ĐẠi Ma Tử vác lên vai, kéo tay Tiểu Phượng chuồn khỏi ngõ, cả cỗ xe cũng bỏ lại luôn. Cả bọn sợ giẫm phỉa những con mèo đang vục mặt ăn ếch, đành phải nhón từng bước, nép vào tường àm đi. Mới đi được vài bước, chợt thấy con mèo khoang có đủ màu lông pha sắc vàng, trắng, chạy ra khỏi dám mèo, ngồi im trên mặt đất không nhúc nhích, chăm chú nhìn vào cả bọn ba người.
Bọn Trương Tiểu Biện thấy cổ quái, bất giác chú ý tới con mèo nọ, chỉ thấy nó không giống mèo hoang tầm thường, tuổi tác cũng không già lắm, da bóng lông mượt, đôi mắt nhoang nhoáng, rất có thần thái, từ cử chỉ đến khí độ đều ung dung phi phàm, xem ra đây chính là thủ lĩnh của bầy mèo hoang.
Trương Tiểu Biện chợt nhớ lại thuật xem mèo đoán chó, liền quan sát kỹ một lượt. Con mèo này hai tai tròn trịa, khác hẳn mèo thường, có lẽ là giống mèo “Kim Ngọc Nô” được chép trong thư tịch cổ, đốm vàng thì như vàng ròng, đốm trắng thì như bạch ngọc. Từ đời Hán đến nay, đã là một loại mèo quý hiếm trên thế gian. hắn ta người nghèo chí ngắn, không khỏi nảy sinh tà niệm, bụng bảo dạ:” Nếu đem con Kim Ngọc Nô này bán ở Kinh thành, chắc hẳn có nhiều bối lặc, vương gia biết người biết của, thích chơi mèo, có khi cũng được…”
Trương Tiểu Biện đương lúc nảy ra ý nghĩa đen tối thì chợt thấy con Kim Ngọc Nô đột nhiên ngẩng đầu, nheo nheo mắt, nhếch mép mỉm cười với ba người. Nụ cười đó khiến bọn Trương Tiểu Biện ba hồn bảy vía lên mấy. Từ xưa tới nay, khắp gầm trời này không có mèo nào biết cười bao giờ. Ai mà gặp phải một con mèo biết cười, thì đúng là gặp phải yêu quái rồi.
Trương Tiểu Biện thấy nụ cười của con mèo hết sức quái dị, lập tức nhớ lại tình cảnh đếm mèo trong cổ mộ Kim QUan lúc trước, trong lòng giật nảy lên một cái, không dám tiếp tục nhìn con Kim Ngọc Nô nữa, hai chân chạy như bay ra khỏi lối ngõ hẹp như làn khói
Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng cũng đều hoảng sợ, chạy theo sau Trương Tiểu Biện. ba người chạy qua một lối ngõ khác, đến một góc phố có người qua lại mới dám dừng lại thở hổn hển, trong lòng còn chău hết kinh hoàng, mãi chẳng nói lên lời.
Tôn Đại Ma Tử bỏ cương thi mỹ nhân trên vai xuống đất,thở hổn hển giây lát, rồi hỏi Trương Tiểu Biện:”Ma mị thật! Mỗ đây lớn chừng này rồi, ngày thường thấy vô số mèo nuôi, mèo hoang những chưa từng thấy con mèo nào biết cười cả, nghe nói mèo không cười được là vì mặt mèo không có sợi gân cười. Con mèo chúng ta vừa thấy lúc nãy, nhất định là yêu quái trong miếu cổ, phải mời pháp sư thực thụ mới được, tránh để lâu ngày sẽ gieo hoạ cho bách tính vô tội.
Tiểu Phượng lại nói:” Có lẽ là Miêu từ đã lâu không có hương khói, nay chúng ta đai bầy mèo hoang một bữa ếch to, khiến chúng không chịu đói nữa, Miêu tiên gia thấy vui lòng nên mới hiển linh như vậy. Tiểu Tam ngươi bảo có đúng không?”
Trương Tiểu Biện đáp:” hai người chưa trải sự đời, biết gì mà nói chứ? Tuy rằng mèo có ở khắp nơi trên thế gian này, những kẻ tầm thường tưởng đã quá quen thuộc, những thực chất lại không biết hết ngóc ngách về chúng. Tam gia ta nói ra không phải để dạo hai người, chẳng những mèo biết cười mà sau lưng chúng ta chúng còn biết nói nữa. Dẫu là mèo trắng, mèo đen, hay mèo khoang thì đều biết nói tiếng người, có điều đó là việc cấm kị nên chúng không dám cất lời đấy thôi, chỉ khi nào không có tai mắt con người chúng mới lên tiếng”
Tiểu Phượng và Tôn Đại Ma Tử đều lắc đầu không tin:” Chú đang nói về vẹt chứ đâu phải về người. Ai thấy mèo thốt lên tiếng người bao giờ?”
Trương Tiểu Biện ra vẻ thần bí, hạ giọng nói:” Có một phép lạ thời cổ có thể ép con mèo nói được. Đầu tiên bắt một con mèo đực, vào lúc trăng tròn thì xích nó trước gương…”
Tôn Đại Ma Tử là người thẳng thắn, chuyện gì chưa thấy thì đều cho là nói xằng, liền không đợi Trương Tiểu Biện nói xong, gã đã hết kiên nhẫn, nằng nặng hỏi lý do hắn đem cái thây vào thành làm gì, để đến nỗi cả bọn phải chịu bao nhiêu điều sợ hãi, nếu không nói thí thật hơi có thiếu trượng nghĩa.
Trương Tiểu Biện bị cật vấn gắt gao thầm tính tạm thời chưa thê giãi bày đầu đuôi câu chuyện, chỉ còn cách nói tình nói lý cho họ hiểu. hăn cũng học hai năm ở trường làng, nói nửa văn vẻ nửa quê mùa, cộng thêm cái mồm lanh lợi, kể lể bịp bợm một hồi thành ra thấu tình đạp lý , khiến Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng vừa nghe vừa gật đầu lia lịa.
Chỉ nghe Trương Tiểu Biện thuận miệng ba hoa:” Trời không sinh ra người không có lộc, đất không sinh ra cỏ không có rễ, các người thấy trong thành bao nhiêu kẻ mặc lụa là gấm vóc không, chúng cũng như chúng ta mà thôi. Ta chả kém gì chúng, thế mà chúng ăn mo mặc ấm, còn chúng ta thì tan cửa nát nhà, nghèo tới mức áo không đủ che thân, người không một đồng cắc? tổ tiên của hai người ra sao thì ta không rõ, nhưng tổ tiên nhà họ Trương tab a đời không có con trai phạm pháp, sáu đời không có con gái tái hôn, toàn là người chuyên làm việc thiện tích đức. Chẳng lẽ truyền đến đời Trương tam gia ta lại phải cả ngày nhịn đói nhịn khát, đi đến đâu cũng bị người đời khinh rẻ, như thế lẽ nào ông trời kia không có mắt? Hoàn toàn không phải như vậy, có câu rằng:” Người hiền bị người hà hiếp chứ trời không hà hiếp”, có một vị thần tiên sẵn lòng cứu bần tế khổ, muốn đauw chúng ta khỏi bể khổ mà được vinh hoa phú quý, chính vì vậy, khi ở trong mộ cổ đã mách bảo Tam gia ta con đường kiếm ra tiền trăm bạc vạn. KHông rõ các ngươi đã từng nghe qua câu này chưa:” Mệnh do trời định sẵn, việc bởi người làm nên”. Cảnh giàu sang, cả đời ăn tiêu không hết, làm gì có chuyện ngồi mát mà có được bát vàng? Nhất định phải trải qua nguy hiểm, vượt qua phong ba, chứ nếu không trên đời này làm gì có kẻ nghèo nữa”
Trương Tiểu Biện lại kể lời dặn của Lâm Trung Lão Quỷ, cắt đầu cắt đuôi đi một chút, rằng việc chuyển thi thể vào trong thành là để mang đến một cửa hàng lâu đời có tên là “ Tùng Hạc đường”. Nếu tìm đến đúng chỗ thì núi vàng núi bạc chẳng mấy mà hiện ra trước mắt. Song Tùng Hạc đường buôn bán cái gì và nằm ở chỗ nào trong thành thì hoàn toàn không biết.
Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng dường như đã tỉnh ngộ, ba người vội tìm một chỗ kín đáo để bàn bạc, đoán rằng cương thi mỹ nhân là một món cổ vật trong Ứng Trủng sơn, tùng Hạc đường là một cử hiệu chuyên buôn bán cổ vật, chỉ nghe cái tên không thôi cũng đã thấy cổ kính rồi, chắc hẳn là như vậy, khốn nốn lại không biết cái tiệm ấy nằm ở phố lớn nào nữa.
Đường ở mồm, cả bọn chia nhua đi thăm dò, chẳng ngờ khi nghe hỏi về cửa hàng đồ cổ Tùng Hạc đường thì người trong thành đều lắc đầu không biết. “thời bình gom đồ cổ, lúc loạn tích tiền vàng”, bây giờ là lúc giặc cướp trong thiên hạ nổi lên như ong, trừ thành Bắc Kinh ra thì làm gì còn nơi nào buôn bán đồ cổ nữa chứ? Các cửa hiệu đồ cổ trước kia, nay đều đã đóng cửa cả rồi. Cuối cùng chỉ có duy nhất một vị hòa thượng trụ trì một ngôi chùa lẻ trong thành mới bảo bọn Trương Tiểu Biện rằng:’ Trong thành Linh CHâu không có cửa hiệu đồ cổ Tùng Hạc đường, nhưng lại có một hiệu bán thuốc tên là Tùng Hạc đường, nằm ở đường Thanh Thạch phía bắc thành, mặt đường toàn lát đá xanh. Hiệu ấy lớn nhất phố, chỉ cần đi khỏi đây mấy trăm bước sẽ thấy biển hiệu của nó, rất nổi bật dễ tìm”
Bọn ba người Trương Tiểu Biện ngẩn tò te nhìn nhau, hóa ra lúc trước đoán sai, xem ra tám phần mười đúng là cái hiệu thuốc Tùng Hạc đường đó rồi, chẳng lẽ hiệu thuốc mua cái xác về phối làm thuốc ư? Như vậy món làm ăn này phạm phải điều cấm kị rồi, nghĩ thế cả ba khó tránh khỏi cảm giác thắc thỏm không yên, song lại nghĩ, cứ đến đó rồi mới biết, cùng lắm thì co chân bỏ chạy là xong.
Quyết ý như thế, cả bọn vòng qua một ngõ nhỏ tránh đám lính dõng tuần thành, tìm đến phố Thanh Thách, quả nhiên thấy một hiệu thuốc to, từ xa đã ngửi thấy mùi thảo dược tỏa ra nức mũi. Trước cửa hiệu có treo một biển lớn đề ba chữ rồng bay phượng múa:” Tùng Hạc đường”, bên trong sảnh có tấm hoành phi cổ:” Huyền hồ tế thế” (Treo bầu thuốc cứu đời), mấy tầng lầu gác trập trùng trông đến là hoành tráng.
Cổng lớn hiệu thuốc mở rộng, nội đường, ngoại đường đều được quét dọn tinh tươm, người ra người vào không ngớt. Tầng một là nơi bốc thuốc, bày hàng loạt tủ thuốc cao ngất, sơn then bóng loáng, ngoài hai người chánh phó đứng quầy thuốc, còn có bọn người làm, học việc chạy qua chạy lại nhộn nhịp. Phía trước tấm bình phong lớn kê ở nhà ngang bày một bộ bàn ghế, một thày lang đầu râu tóc bạc, chuyên chẩn mạch kê đơn đáng bách mạch cho bệnh nhân.
Trương Tiểu Biện thấy hiệu thuốc đông người, nào dám tùy tiện bước vào, liền nấp ở một góc phố chờ tới lúc cửa nẻo lên đèn, trông thấy Tùng Hạc đường bắt đầu đóng cửa, gần đó lại không có bóng quan binh, hắn mới để Tiểu Phượng ở ngoài đợi, rồi cùng Tôn Đại Ma Tử bê cương thi mỹ nhân, rỏa nước đến trước cửa.
Tên người làm trong Tùng Hạc đường đương lúc bận bịu, thấy hia kẻ áo quần lam lũ đột nhiên chạy vào, tưởng là ăn xin, liền trừng mắt lên, cầm ngược cái chổi lông gà định đánh đuổi bọn Trương Tiểu Biện và Tôn Đại MA Tử ra khỏi cửa.
Trương Tiểu Biện vội vã vái chào, bịa chuyện:” Chúng tôi đến bán dược thảo quý hiếm, có món hàng này mong trưởng quầy ghé mắt một chút.”
Nào ngờ tên người làm này là một đứa học việc quen cậy thế làm càn, trong mắt có coi hai kẻ rách rưới như Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử ra gì. Hắn trổ cán chổi vào mặt cả hai, mắng:” Hai thằng ranh không có mắt các ngươi từ đâu đến? Sao dám lằng nhằng trước cửa Tùng Hạc đường. Ông đây cũng có món hàng đây này, để ông cho chúng bay xem trước!” Nói xong hắn hằn học vụt nhầu cái chổi lông gà xuống
Ngày thường, Tôn Đại Ma Tử rất hao trò đánh côn, múa quyền, dẫu sao cũng có vìa ngón võ, lại thêm huyết khí phương cương, làm sao chịu để hắn đánh cho. Gã giơ tay nắm chặt lấy cổ tay tên nọ, sừng sộ quát:” Mỗ đến bán thuốc, không phải pường đạo tặc trèo tường khoét vách. Chưa rõ đầu đuôi ngọn ngành sao ngươi dám đánh? Phải cho nhà ngươi biết nắm đấm của mỗ đây lợi hại thế nào…”
Tên người làm bị Tôn Đại Ma Tử bóp chặt cổ tay, đau quá, kêu rống lên như lợn bị chọc tiết làm kinh động mọi người trong cửa hiệu, ngay tắp lự có mấy người cầm then cửa, chổi tre, ghế dài định xông vào giúp. Trương Tiểu Biện kêu lên:” Khổ quá, Diêm Vương dễ cáu, tiểu quỷ khó dây, chưa trông thấy trưởng quầy đây đã bị bắt, lần này chắc bị giải đến công đường đánh chết thôi, không hiểu con nha đầu Tiểu Phượng có lòng tốt đến nhặt thi thể của hai bọn ta không”.
Tôn Đại Ma tử nóng máu lắm rồi, đang xuống tấn lấy thế chuản bị nghênh chiến, chẳng ngờ, đúng lúc ấy, tiếng huyên náo đã kinh động đến Thiết trưởng quầy của Từng Hạc đường.
Lời của tác giả: Lão Thiết chưởng quầy này là tên gian thương nổi tiếng keo kiệt ở đất Linh Châu, một đồng một cắc cũng không dám tiêu, tiền vào như nước nhưng tiền ra nhỏ giọt. Nếu có ai đó đòi lấy hơn của Thiết chưởng quầy một đồng thì chẳng khác nào rút gân của lão, người này bẩm sinh có cặp mắt gà chọi thế nên còn có hiệu là “Thiết Công Kê” (gà trống sắt).
Thiết Công Kê xưa này vẫn ngấm ngầm cấu kết vưois quan lại. Lão là kẻ tiểu nhân tham lam, chỉ chăm chăm mưu lợi, tìm trăm phương ngàn kế khiến các hiệu thuốc trong thành phải đóng cửa, thành ra tới giờ, các cửa hiệu kinh doanh dược thảo lớn nhỏ ở Linh Châu đều mang họ Thiết, lại nhân lcus thiên tai địch họa, ôn dịch tràn lan, lão bán thuốc thu lợi rất nhiều. Cuộc sống người dân thường đã như chỉ mành trao chuông, bệnh nhẹ thì cắn răng chịu đựng, những người đến đây kê đơn bốc thuốc đều là những con bệnh nặng chờ cứu mạng, đành phải bấm bụng để Thiết CÔng KÊ hét giá cắt cổ. Biết bao người nghèo đã phải bán trẻ đợ con vì mấy cái đơn thuốc của lão.
Càng là những con buôn khắc bạc, keo bẩn như vậy, thì càng đặt mục tiêu trục lợi lên hàng đầu, lão nghe ngoài cửa ồn ào, liền ra hỏi, mới hay có hai người muốn đến bán thảo dược quý hiếm những bọn người làm thấy họ rách rưới tưởng là tụi rỗi hơi đến phá đám. Thiết Công Kê vốn định tỏ vẻ ta đây, mặt mày lạnh lùng, nghe đến bốn chữv “dược thảo quý hiếm”, lập tức đảo cặp mắt gà nhìn nhìn chằm chằm vào cái bao tải trên lưng Trương Tiểu Biện vén môi cười gian xảo.
Mặc dù cái bao gai bẩn thỉu y như đống bùn, nhưng bên trong thì lùng bùng, như đang chứa một vật gì đó. Thiết Công Kê vốn là kẻ tay trắng làm nên, hồi trước phát tài cũng là nhờ tình cờ có được mấy cử sâm già đã thành hình. Lão biết rằng, bọn miền ngược tuy nghèo khổ nhưng thường xuyên vào rừng sâu núi thẳm mưu sinh, cơ hội đào được các thứ kì hoa dị thảo không phải là không có, riêng điểm này thì không thể nhìn bề ngoài mà xét đoán được. Chẳng cần biết thứ hai đưa nhỏ này muốn bán là thuốc thật hay giả, cứ mãng ra xem cũng chẳng mất gì. Nhược bằng, chúng là bọn lừa đảo thì sẽ hô người đánh đập cũng không muộn.
Nghĩ như thế, Thiết Công Kê liền quát bọn giúp việc dừng tay, cười khùng khục một cách cổ quái rồi sai người mời Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử vào nội đường nói chuyện.
Thiết Công Kê dẫn theo lão thủ quỹ tâm phúc, đưa bọn Trương tiểu Biện vào bên trong, lệnh cho đám người còn lại ở ngoài canh gác, đoạn vào trong đóng cửa lại rồi ngồi xuống, cũng chẳng mời trà nước gì, chỉ liếc nhìn vào cái bao tải to rồi nói với Trương Tiểu Biện:” Còn đứng trơ ra đấy? Có gì muốn bán thì mang ra xem nào!”
Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử tuy trống ngực đập thình thịch nhưng lúc này đã chẳng còn đường lui, đành cố tỏ vẻ cứng cỏi mở bao gai, để lộ ra một cái xác nữ trần truồng không hàm dưới và nói:” Mời ông xem qua…”
Lão thủ quỹ đứng gần bao tải nhất, vốn mắt kém, lúc đầu nhìn không rõ, ngạc nhiên thốt lên:” Củ nhân sâm lớn quá”, rồi vội đeo kính lão vào, rướn người lại gần xem cho kĩ, vừa nhìn một cái, lão đã sợ tới mức đánh rơi cả kính:” Cha mẹ ơi, là…là cường thi” rồi kêu lên:” Nhất định đào trong mộ cổ ra rồi, tởm quá! Chưởng quầy! tôi sẽ báo bọn người làm đem dây trói hai tên tặc tử đào trộm mộ này, giải đến nha môn xét xử!”
Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử thấy đại sự đã hỏng, định quay người phá cửa mà chạy, nhưng Thiết Công Kê không kinh hoàng như lão thủ quỹ mà ngược lại, thần sắc trên khuôn mặt lão biến đổi liên tục, đột nhiên đứng lê lật hẳn bao tải ra, ngắm nghía từ trên xuống dưới thể trạng và dung mạo của cái xác. Con người lão tuy tiểu nhân gian xảo những rất thông hiểu y lý, dược lý, nhớ nhiều bài thuốc cổ, cũng là một kẻ biết nhìn hàng hóa. Lão xem xong, gật đầu nói:” Đây là Mỹ nhân vu của đời trước. hai ngươi phải nói thật, có được cái này từ đâu?”
Trương Tiểu Biện nào biết cái gì là Mỹ nhân vu, đành nói được là đào được ở vườn sau nhà, cũng không biết lai lịch thế nào. Có người học rộng trong làng bảo đây là một vị thuốc quý nên mới lặn lội mang vào thành, nghe có hiệu Tùng Hạc đường nổi tiếng đã lâu, tiếng lành đồn xa, già trẻ đều trọng…”
Không đợi Trương Tiểu Biện nói hết câu, Thiết Công Kê “hừ” một tiếng, rồi cười nhạt, mắng:” Nói năng lung tung! Xung Quanh ứng trủng sơn đều là đất chó ăn đá, gà ăn sỏi, ngoài mấy ngôi mộ ra thì còn thứ thuốc gì trân quý nữa? Đây rõ ràng là xác chết của triều đại trước. Có điều, mặc dù là vật quý xưa nay nhưng chỉ e chả đáng mấy đồng. trong thành Linh Châu này, ngoài tar a chẳng có người thứ hai biết hàng nữa đâu. Các người đã tìm đến đây âu cũng là một cơ duyên, cho nên ta cũng chẳng che giấu gì nữa, những việc khác thôi không bàn, chỉ mặc cả với các ngươi một cái gái hợp lý. Thuận mua vừa bán rồi sẽ bảo các người biết lai lịch của vật này…
Tôn Đại Ma Tử tưởng Thiết Công Kê chịu trả một món tiền lớn, trong lòng vui mừng, chửng để ý nghe lão phát giá đã tỏ ý ưng thuận ngay. Lúc đó, trong đầu Trương Tiểu Biện chợt loé lên, nhớ đến lời Lâm Trung Lão Quỷ:” Mang cái xác này đến Tùng Hạc đường, cho dù hắn phát giá bao nhiêu cũng không đồng ý, đừng tham món lợi nhỏ, chỉ cần đòi con mèo đen ở hậu viên Tùng Hạc đường là được. Nếu không có con mèo đó thì núi vàng, núi bạc chôn giấu trong thành Linh CHâu sẽ không tìm được đâu. Con mèo đen nuôi ở Tùng Hạc đường chính là chìa khoá mở ra kho báu ở thành Linh Châu đấy”
Đúng là:” Sống chết có số; Phú quý nhưof trời; Huyền cơ ngầm ẩn; Chỉ trong vài lời; Tin hay không tin; Tự quyết mà thôi”. Muốn biết sự thể thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.