- Hiện nay có rất nhiều Wap giả mạo KhoTruyenHay.Info, vì vậy các bạn hãy nhớ trang Wap đọc truyện tình yêu, truyện tình cảm, truyện ngắn online, tiểu thuyết tình yêu cập nhật miễn phí hay nhất tại KhoTruyenHay này nhé!
Thông Báo: Tên miền KhoTruyenHay.Info chính thức được sáp nhập vào địa chỉ cũ là KhoTruyenHay.Sextgem.Com vào ngày 18/08/2015. Hãy lưu lại địa chỉ KhoTruyenHay.Info để tiện việc truy cập nhé!
Các bạn hãy Click vào Tham Gia Nhóm của KhoTruyenHay.Info trên FaceBook để giao lưu cùng mọi người nhé!
Lữ quán giết ngườiChương 1
Vào một ngày cuối tháng 11, trời lạnh và u ám. Thời tiết thay đổi từ đêm qua: gió dữ dội, bầu trời xám xịt, rồi một cơn mưa phùn. Mới vào khoảng hai giờ chiều mà khắp các ngọn đồi đều bị bao phủ trong ủ dột của một chiều đông. Sương mù giăng cùng khắp. Và chỉ 4 giờ chiều trời đã tối sầm lại.
Mặc dù các cửa kính đều đóng kín, khí lạnh và hơi ẩm vẫn len vào xe. Nệm ghế bằng da nhờn dính tay. Trên mui xe, những giọt nước mưa theo một kẽ rạn nào đó làm ướt da bọc ghế và để lại những vết xanh như mực. Gió xoáy càng lúc càng tăng, có lúc gió như muốn lật nghiêng chiếc xe cũ kỹ khi qua một khúc quanh. Khi lên chỗ cao, trống, gió càng có dịp làm cho cả thùng xe rung lên, đong đưa giữa bốn cái bánh gỗ cao nghều nghệu… như một tên say rượu.
Trùm kín tai, ngồi khum lưng như muốn gập đôi người lại, bác đánh xe cố sức dùng đôi vai che chở cả thân hình trong mưa gió.
Trong khi ấy, bốn con ngựa chừng như kiệt sức tiến tới một cách chậm chạp, miễn cưỡng. Chốc chốc, đôi tay lạnh cóng của bác phu xe lại nhịp roi vun vút lên đầu chúng, song những ngọn roi của bác thật chả thấm thía chi so với gió mưa. Bánh xe rít lên ken két mỗi khi sụp nhằm một ổ gà, rồi bùn lẫn với nước mưa bắn lên cửa kính tung tóe. Mưa vẫn ri rỉ, lai rai, trời tối mịt.
Trên xe, lơ thơ vài hành khách, họ ngồi sát lại nhau như để sưởi nhờ hơi ấm của nhau. Mỗi bận xe sụp nhằm ổ gà, họ lại nhất loạt kêu lên ơi ới.
Một ông lão, từ khi lên xe ở Truno vẫn không ngớt phàn nàn, bỗng không giận dữ đứng lên; ông mạnh tay quay kính xe xuống khiến mưa bay vào ướt cả ông lẫn bạn đồng hành. Nghiêng mình ra ngoài cửa, ông mắng bác phu xe là quân ăn cướp, sát nhân; ông bảo rằng nếu bác ta cứ cho xe chạy kiểu nầy mọi người sẽ chết trước khi đến Bodmin, rằng mọi người đều sắp ngất đến nơi, rằng ông thề sẽ không bao giờ đặt chân lên một cái xe ngựa nào nữa, từ nay.
Những lời nhiếc móc tàn tệ kia được gió mang đi. Vì chờ mãi vẫn không thấy bác phu xe phản ứng, ông ta đành tặc lưỡi, quay kính xe lên lại. Mọi người tê cóng vì gió luồn vào. Ông khách khó tính trở lại chỗ ngồi, đắp hai chân và tiếp tục càu nhàu.
Bên cạnh ông ta là một bà vui tính, người beo béo, mặc một cái áo khoác xanh dương. Thở dài đánh sượt một cái, bà ta ra vẻ cảm thông với bạn đồng hành về nỗi bực tức, nháy mắt với các người khác, và sau cùng cất tiếng nói rằng đêm nay là đêm kinh khủng khó quên nhất đời mình. Ðoạn bà lục trong cái giỏ to kềnh lấy ra một cái bánh ngọt khá lớn, cắn ăn ngon lành.
Mary Yellan ngồi đối diện bà ta. Kẽ nứt trên mui xe thỉnh thoảng lại rơi xuống vài giọt nước lạnh buốt lên vai nàng, và cô gái lặng lẽ lấy tay chùi vội. Hai tay đỡ lấy cằm, Mary dán mắt ra khung cửa xe đầy bùn và nước mưa. Cô ao ước một cách vô vọng: một tia nắng xuyên qua bầu trời nặng nề dù chỉ trong khoảnh khắc, để cô được thấy lại khung trời xanh của Helford, nơi cô vừa từ giã hôm qua.
Helford cách đây 40 dặm. Nơi đó đã là tổ ấm của nàng suốt 20 năm qua. Nhưng hy vọng của nàng tàn ngay sau đó và lòng can đảm - trước nay vẫn là đức tính của nàng – đã giúp nàng vượt mọi trở ngại trong cơn bệnh kéo dài của mẹ, giờ bỗng tiêu tán bởi trận mưa dai dẳng và cơn lốc dữ dội nầy.
Vùng đất xa lạ làm Mary lạc hướng, Mary thấy một thế giới khác xa với thế giới nàng đã sống lâu nay, dù chỉ cách có một ngày đường. Chao! Biết bao giờ cô gái được thấy lại những đồng cỏ xanh rì ở Helford, những dòng nước trong vắt lấp lánh dưới nắng sớm, những mái nhà tranh thơ mộng bên dòng suối? Mưa ở Helford thật khác xa đây: mưa rơi tí tách tưới mát cỏ cây rồi trở thành những dòng nước chảy ra sông. Mưa làm mát đất và đất biết ơn trổ hoa mầu đền bù…
Nơi đây mưa tạt vùn vụt vào khung kính và như không thể thấm vào đất cằn cỗi. Chả thấy cây cối gì trừ vài cây khô, giang cành khẳng khiu ra chống đỡ gió mưa một cách tuyệt vọng; chúng đã trải qua nhiều năm tháng chịu đựng thời tiết quái ác ở đây và kiệt sức rồi. Bão tố và thời gian làm chúng khô khan. Dù cho mùa xuân có đến, các nụ trên thân cây cũng không đâm lá vì sợ chết rét. Ðất nghèo nàn, không một cánh đồng, không một rào dậu. Ðó đây toàn đá sỏi, vài bụi gai đen và những cành hoa dại xác xơ.
Mary nghĩ chắc trong vùng nầy chỉ có mùa đông đen tối, như hôm nay và mùa hè khô bốc lửa: không tìm thấy một bóng mát khắp thung lũng. Cỏ vừa lên khỏi mặt đất cằn đã phải ngả màu vàng úa. Khắp vùng đều u ám như thời tiết. Ngay trên đường đi và trong làng mạc, những kẻ Mary gặp như cũng hợp với khung cảnh: buồn bã, khô khan…
Rời Helston, Mary vẫn như còn ở trên miền đất thân yêu, quen thuộc: bao nhiêu kỷ niệm buộc chặt nàng với Helston!
Mỗi tuần, cha nàng đánh xe chở nàng ra chợ và đến khi cha mất, mẹ nàng đã can đảm thay cha nàng chở nàng suốt hạ qua đông; gà vịt, trứng, bơ được chất trong thùng xe trong khi Mary ngồi cạnh mẹ nàng ở băng trước, ôm khư khư một cái giỏ to gần bằng cả người nàng, cằm đặt trên quai giỏ.
Dân làng rất tốt bụng. Gia đình Mary được mọi người quen biết và kính mến. Sau khi chồng chết, mẹ nàng đã gặp nhiều khó khăn, và ít người có thể sống như mẹ nàng: một mình với con thơ và một trang trại phải chăm sóc, mà không hề nghĩ đến chuyện tìm một bạn đường khác để nương tựa.
Một ông chủ trại ở Manaccan, và một ông khác ở Gweek, miền thượng lưu dòng sông đều muốn cưới bà nhưng họ không dám ngỏ ý. Cả hai người đều đọc trong mắt bà cái ý chí cương quyết cùng như lòng kiên trung, họ biết rằng bà luôn luôn thuộc vào một người đã khuất và họ biết rút lui trước khi ngỏ ý để khỏi bị bẽ bàng.
Công việc đồng áng khó nhọc vượt quá sức bà. Bà vẫn cố gắng vượt mọi trở ngại, chứng tỏ can đảm có thừa, trong suốt 17 năm ròng góa bụa. Nhưng sức người có hạn: bà không vượt nổi thử thách sau cùng nên đã ngã quỵ xuống luôn.
Mẹ Mary đau liệt giường. Gia súc giảm trong trại, lại gặp lúc thời tiết xấu, giá gà, trứng thì rẻ mạt, tiển kiếm khó khăn hơn. Trong vùng và miền lân cận tình trạng cũng tương tự. Trong các nông trại nhiều người gần chết đói. Bệnh dịch súc vật nổi lên hoành hành các vùng quanh đó. Người ta không biết đó là thứ dịch gì và cung cách chạy chữa thế nào, vì thế dịch càng dữ dội. Nó tàn phá tất cả những gì nó gặp như một cơn lạnh trễ tràng đến sát mùa và khi nó biến mất đã để lại sau lưng sự chết chóc kinh hồn.
Ðó là một thời gian đầy lo lắng cho mẹ con nàng. Họ buồn rầu nhìn gà vịt mình gia công chăm nuôi nhuốm bệnh và lần lượt chết. Ðến con bò con cũng ngã xuống giữa đồng. Nhưng điều làm cho họ đau đớn nhất là cái chết của con ngựa cái, nó đã làm lụng với họ suốt hai chục năm ròng. Chính trên lưng rộng và rắn chắc đó, Mary đã tập cưỡi ngựa lần đầu…
Một buổi sáng, con ngựa nằm xuống vĩnh viễn, đầu vẫn còn gối lên chân cô chủ trẻ. Một nấm mộ được đào ngay dưới gốc cây táo. Sau khi chôn con vật trung thành, mẹ con nàng đau xót thấm thía: từ nay họ làm sao ra chợ mỗi tuần?
Mẹ nàng bảo con gái bằng giọng buồn rầu:
- Hình như có cái gì trong mẹ đã ra đi, đã bị chôn cùng con Nell đáng thương rồi, Mary ạ! Mẹ chán nản, không thiết gì nữa cả, mẹ mỏi mệt vô cùng…
Mary nhìn kỹ mẹ: nàng hoảng hốt thấy mẹ như già thêm 10 tuổi trong khoảnh khắc, mặt tái xanh, quầng mắt thêm sâu, bà lảo đảo phải tựa vào con cho khỏi ngã trong đoạn đường từ gốc táo vô nhà. Nghe con gái định mời bác sĩ, người mẹ tỉnh táo trả lời:
- Trễ lắm rồi, Mary ạ! Đã 17 năm rồi…
Lần thứ nhất bà khóc thổn thức. Lần thứ nhất bà khóc trước mặt con gái. Mary chưa hề thấy mẹ khóc bao giờ.
Khi Mary ngồi cạnh viên bác sĩ - người đã đỡ nàng trong khi mẹ nàng sinh – ông ta lắc đầu, cất giọng rầu rĩ bảo nàng:
- Ta cho con biết nguyên do: mẹ con đã phung phí sức khỏe từ khi cha con nhắm mắt. Giờ đây bà khó lòng mà gượng nổi. Ta lo quá, Mary ơi!
Chiếc xe chở cả hai người trở về trên con đường ngoằn ngoèo. Một bà láng giềng chờ tận cửa, vẻ nóng nảy của bà làm cho Mary và bác sĩ cảm thấy điềm xấu đang chờ họ.
- Mẹ cháu yếu quá. Bà vừa ra khỏi cửa thì run lên, mắt lạc đi, ngã gục xuống. Chúng tôi đã vực bà lên giường, nhưng…
Bác sĩ xua những kẻ tò mò vây quanh cửa, bước vào nhà. Sau khi khám kỹ bệnh nhân, ông nói với Mary:
- Mẹ con bị sung huyết, nhưng bà còn thở đều. Ta rất sợ cơn sung huyết bất ngờ đáng sợ nầy.
Rồi ông thấp giọng xuống, như cốt nói với chính mình:
- Sao mãi đến bây giờ nó mới phát ra, sau bao nhiêu năm khó nhọc? Chỉ có Trời và có lẽ - cả bà ấy, biết rõ mà thôi! (Ông cao giọng lên Mary! Con phải tỏ ra xứng đáng với mẹ con. Chỉ có con có thể giúp mẹ con vượt qua cơn thử thách đáng lo nầy. Chỉ có con thôi!
Suốt sáu tháng liền, Mary tận lực săn sóc mẹ. Mẹ nàng trải qua cơn bệnh đầu tiên – mà cũng là cuối cùng - của đời bà. Mặc dù được con gái và bác sĩ tận tình chăm sóc, cơn bệnh không lui. Hình như bà không thiết sống nữa. Bà mong một sự giải thoát và mong nó đến mau hơn.
Bà bảo con, giọng âu yếm:
- Mẹ không muốn con sống khó khăn, cực nhọc như mẹ đã sống. Hại cả thể xác lẫn tinh thần. Khi mẹ chết rồi không còn gì giữ con lại Helford. Hãy đến sống với dì Patience ở Bodmin.
Mary quả quyết rằng mẹ nàng không thể chết được, rằng nàng cần có mẹ cũng như mẹ cần nàng. Bà sẽ vượt qua… Nhưng vô ích. Bà đã nhất định như thế và không hề đổi ý. Mary nói với mẹ:
- Con không bao giờ rời nông trại. Con sinh tại đây cũng như cha con. Dòng họ Yellan của chúng ta phải ở đây! Sự nghèo khổ vất vả không làm con sợ. Cũng như sự suy sụp của nông trại… mẹ đã ra công trong 17 năm trời, tại sao con lại bỏ nó khi mẹ không còn sống nữa? Con mạnh khỏe, con có thể làm việc như một người đàn ông, mẹ thấy mà!
- Ðời sống nầy không thích hợp với một thiếu nữ như con. Mẹ nàng nói như một lệnh - Nếu mẹ đã chịu đựng lâu nay đó là vì hai người thân yêu của mẹ: con và cha con. Khi một người đàn bà làm việc cho ai, họ thỏa mãn và yên lòng, có can đảm. Nhưng nếu làm cho chính họ lại là một việc khác. Lòng mình khó thỏa mãn con nên nghe lời mẹ!
- Con làm gì ở thành phố? Con chỉ quen và chỉ ưa sống như thế nầy, cạnh dòng sông, không ưa thay đổi. Con sẽ sung sướng ở đây với vài con gà còn lại, với con ngựa già, với cỏ trong vườn và chiếc thuyền trên sông. Ðến Bodmin với dì con, con sẽ làm gì? Con sẽ ra sao?
- Một cô gái không thể sống đơn chiếc một mình. Con sẽ trở thành quái dị hay hư hỏng. Hãy nghe mẹ! Sự cô đơn là một cái gì đáng sợ nhất. Rồi con sẽ thấy. Dưới mồ mẹ không sao yên lòng Cũng như cha con, nếu không được biết con sống an toàn cạnh người thân. Dì Patience rất tốt, dì vui tính, hay cười đùa và có tấm lòng vàng. Con quên dì rồi ư? Dì không sinh nở, dì sẽ thương con như mẹ vậy. Con còn nhớ không: lúc dì đến đây, cách 12 năm trước…
Không, Mary không quên dì Patience, tuy lúc đó nàng còn bé. Dì mặc cái váy lụa, áo xanh và đội mũ kết nơ nhung. Mái tóc dì gợn sóng, mắt xanh biêng biếc. Phải, Mary còn nhớ kỹ: từ nụ cười, khóe mắt cho đến cái cách dì nhón gót, tay xăn váy đi trong bùn ngoài sân. Nom dì xinh như một… cô tiên! Trong lúc Mary thả trí nhờ về dĩ vãng, mẹ nàng nói tiếp:
- Mẹ không rõ chú ấy thế nào, vì mẹ chưa gặp chú. Nhưng khi dì thành hôn với chú cách nay 10 năm, dì viết cho mẹ một lá thư kể nhiều chuyện ngông cuồng, mẹ rất ngạc nhiên. Vì theo mẹ, chuyện nầy có thể hiểu được nều dì con là một cô gái còn trẻ dại cỡ 18, đôi mươi… nhưng dì con lúc đó đã ngoài 30 tuổi…
- Dì và chú ấy sẽ thấy con quê mùa quá – Mary chậm rãi nói – con không thể có đôi bàn tay đẹp như các cô gái nhà giàu thành phố và… và rồi con cũng không biết nói chuyện gì với hai người…
- Dì chú sẽ thương con vì con là cháu họ, chứ không phải vì sự sang trọng hay dáng bộ bề ngoài. Mary con! Hãy hứa với mẹ: sau khi mẹ nhắm mắt rồi con sẽ nghe lời mẹ biên thư ngay cho dì và nói rõ ước muốn cuối cùng duy nhất của mẹ là thấy con sống cạnh dì.
- Con xin hứa. Con xin vâng lời mẹ! Xin mẹ yên lòng. Con sẽ làm tất cả những gì mẹ muốn…
Mary nói, lòng tràn thống khổ vì nghĩ đến tương lai mờ mịt khác xa đời sống đơn giản, quen thuộc hiện nay bên mẹ thân yêu. Chao! Rồi Mary sẽ từ biệt miền đất quê hương quen thuộc? Nàng sẽ dựa vào đâu để vượt qua những ngày sắp đến, không hứa hẹn và chỉ thấy cô đơn?
Mẹ nàng mỗi ngày một suy yếu thêm. Sự sống chậm rãi nhưng chắc chắn rời khỏi bà. Mùa gặt đến rồi mùa hái quả đến… cho đến đầu thu. Khi sương mù bao phủ bầu trời vào mỗi sáng, lúc cái rét bắt đầu làm đất khô cằn, dòng sông chảy mạnh cuồn cuộn ra bể cả; tiếng sóng bể vỗ mạnh trên bờ bể Helford cũng là lúc bà kiệt quệ và tinh thần dao động. Bà nhắc đến tên người quá cố, nói đến chuyện quá khứ và những kẻ Mary chưa hề biết đến. Trong ba hôm liền, mẹ nàng như sống trong một thế giới riêng tư nhỏ bé và đến ngày thứ tư, bà ngừng thở.
Mary đau lòng nhìn những vật quen thuộc lần lượt qua tay kẻ khác. Ðàn gia súc đem bán ở chợ Helston. Các láng giềng mua bàn ghế, tủ giường. Một người ở Coverack mua ngôi nhà. Miệng ngậm ống điếu, ông ta nhanh nhẹn đi lui, đi tới giữa sân, tay chỉ những nơi cần thay đổi, sửa chữa, những cây cối mà ông định chặt bỏ cho quang đãng. Mary tức tối nhìn ông ta qua khung cửa sổ trong khi tay nàng dồn một số đồ đạc cần dùng còn lại vào cái rương của cha mình.
Thật vậy, người nầy làm cho mình có cảm tưởng mình là một kẻ lạ xâm nhập vào nhà nầy mặc dù nó vẫn còn là nhà nàng. Nàng đọc trong mắt ông ta sự hối hả, thúc giục nàng rời khỏi nhà càng sớm càng tốt. Vì thế, Mary chỉ nôn nả mong cho sớm xong công việc để rời Helford mà không hẹn ngày trở lại.
Mary ngừng tay làm việc, giở thư dì đọc lại. Nét chữ nguệch ngoạc, dì cho Mary biết là rất buồn về sự không may của nàng; dì không hay biết gì về cơn bệnh của mẹ nàng vì lần cuối gặp nhau cách đây đã nhiều năm.
“Hiện nay dì chú có vài thay đổi, không còn ở Bodmin mà ở cách đấy 12 dặm, trên đường đi Launceston. Vùng nầy hoang vu lắm. Nếu cháu muốn đến, dì rất vui có bạn trong mùa đông. Dì hỏi ý kiến chú rồi: không có gì cản trở, nếu cháu đừng ồn ào, bép xép. Chú sẵn sàng giúp cháu nếu cháu cần. Nhưng Mary ạ! Rồi cháu sẽ hiểu, chú không thể nuôi không cháu, ông muốn cháu giúp một tay trong việc trông nom lữ quán của ông” .
Mary uể oải gấp lá thư lại, cho vào rương. Quả là một lá thư không mấy niềm nở đối với hình ảnh của dì Patience vui tính ngày xưa, mà nàng còn nhớ. Một cánh thư lạnh nhạt làm cho khoảng cách giữa đôi bên như được khơi rộng thêm ra. Không một lời an ủi, khuyến khích… Toàn thể như biểu lộ (tuy không ra lời) cho một cô cháu bất hạnh hiểu rằng đừng trông cậy nơi dì một nương tựa, dù cho chỉ là một nương tựa tinh thần.
Trời ơi! Dì Patience, nàng tiên của Mary thuở nhỏ! Dì nay đã trở thành một bà chủ lữ quán ở một chốn hoang vu. Tội nghiệp mẹ nàng không hay biết điều nầy. Dù sao, Mary đã hứa với mẹ rồi và không thể sai lời. Vả chăng, nhà đã bán, làm sao nàng ở lại Helford? Dù sự đón tiếp có ra sao nàng cũng nhớ rằng dì là em ruột của mẹ nàng.
Ðời sống ngày xưa đã trở thành quá khứ: nông trại thân yêu, dòng sông trong trẻo ở Helford. Tương lai không có gì hứa hẹn, nhưng nàng vẫn bước đến theo đúng ước vọng của mẹ mình.
Mary lên xe ở Helston, đi về miền Bắc, ngang qua Truno ở suối Fal.
Tại Truno, nhà cửa đông đúc với những nóc chuông giáo đường, đường lát đá phẳng và rộng; trời còn trong xanh tựa như ở miền Nam. Dân cư đứng ở ngưỡng cửa mỉm cười vẫy tay khi thấy xe chạy qua. Nhưng khi Truno mất dạng sau thung lũng, trời tối sầm và đất hai bên đường trở thành khô cằn, quang cảnh tịch mịch. Chỉ thấy toàn đất bỏ hoang. Làng mạc thưa thớt và ở khung cửa không còn thấy những khuôn mặt tươi cười. Không cây cối, không rào dậu. Gió thổi mạnh và mưa to.
Xe đến Bodmin trong tình trạng nầy. Tại đây trời cũng u ám, bẩn thỉu như những chỗ họ vừa đi qua. Lần lượt, hành khách thu xếp hành lý và xuống xe, trừ có mình Mary ngồi yên chỗ. Bác phu xe nhìn vào trong, nước mưa chảy dài trên mặt:
- Cô đến Launceston phải không? Ðêm nay mà qua đồng hoang nguy hiểm lắm. Tốt hơn cô nên ngủ lại đây rồi sáng mai đón xe đi tiếp…
- Có người đợi tôi, bác ạ. Ðường xa không làm tôi sợ đâu. Vả, tôi không đến Launceston. Bác cho tôi xuống Lữ quán Giao Mai…
- Cái gì? Lữ quán Giao Mai? Cô không lầm chứ? Cô đến đó làm gì? Ðó không phải là chỗ của một thiếu nữ như cô…
Bác phu xe nhìn chầm chập vào Mary, gặng hỏi. Rồi chợt, bác ta như hối đã lỡ lời, im lặng đột ngột. Mary trả lời:
- Tôi đã nghe nói đến sự hoang vu của vùng nầy, nhưng tôi cũng chưa bao giờ ở chỗ đông người. Chỗ cũ của tôi cũng vắng lắm. Tôi không…
- Có lẽ cô mới đến nên không hiểu. Không phải tôi muốn nói đến đồng hoang và ao bùn, dù rằng những thứ ấy cũng làm cho nhiều cô, nhiều bà phải sợ…
Quay lại, bác phu gọi một chị đàn bà đang đốt đèn trước khách sạn Royal và nói:
- Nầy, bà đến nói chuyện với cô gái nầy một tí đi! Cô ta đòi tôi chở đến Lữ quán Giao Mai đấy!
Người đàn bà xuống thềm, bước lại nhìn vào xe:
- Ðó là một vùng vắng vẻ lắm. Nếu cô muốn tìm việc làm, cô sẽ không thể tìm ra. Ở đó, người ta không ưa kẻ lạ mặt. Tốt hơn cô nên ở lại đây. Tôi có thể giúp cô.
Mary mỉm cười:
- Xin bà đừng lo, tôi đến gặp họ hàng. Chú tôi là chủ Lữ quán …
Trong ánh sáng lờ mờ, Mary thấy hai người nhìn nàng bằng con mắt sợ hãi. Mary ngừng bặt lại, ao ước bà ta nói vài lời để nàng yên lòng, nhưng không, bà ta rời khỏi khung cửa xe, giọng khác đi:
- Xin lỗi cô. Việc nầy không liên can đến tôi. Chào cô!
Bác phu xe huýt sáo lên xe để che giấu bối rối. Không kịp suy nghĩ gì, Mary nghiêng mình ra cửa xe, nài nỉ:
- Xin bác làm ơn cho cháu biết sự thật. Cháu cảm ơn bác lắm. Hình như mọi người đều ghét chú cháu, phải không? Tại sao vậy?
Bác phu xe không che giấu được bối rối, trả lời nhát gừng:
- Lữ quán Giao Mai có tiếng… dữ. Người ta hay kể chuyện ly kỳ… nhưng cô biết đấy: thiên hạ vốn hay lắm điều. Tôi… tôi không muốn dính dáng gì… Có thể không có chi đáng ngại. Cô lạ gì miệng lưỡi thế gian?
- Nhưng thưa bác, đó là những chuyện gì? Bác muốn nói là ở đó người ta khuyến khích rượu chè? Hay chú cháu tiếp những khách không đứng đắn?
Bác phu xe lắc đầu quầy quậy:
- Tôi đã bảo tôi không muốn xen vô chuyện người khác. Vả lại, tôi cũng không biết chi hết. Nhưng một điều tôi biết chắc là những người tự trọng không bao giờ chịu ghé vào Lữ quán Giao Mai. Hồi trước, chúng tôi có thói quen dừng ngựa lại cho ăn uống và chúng tôi cũng tạt vào quán giải khát qua loa. Bây giờ ngang đó là quất ngựa chạy gấp…
- Tại sao vậy, hở bác? Bác cho cháu biết đi mà. Cháu mang ơn bác… Mary cố nài nỉ.
Bác phu xe do dự giây lát rồi sau cùng buông xõng hai tiếng:
- Họ sợ!
Rồi lắc đầu, ông ta không nói gì thêm. Và như cảm thấy mình đã tỏ ra cục súc với một cô gái, ông ta thò đầu vào khung cửa:
- Cô muốn dùng một chút gì chăng? Một tách trà nóng…? Chúng ta còn phải đi xa và ở vùng đất hoang, gió lạnh ghê hồn.
Mary lắc đầu. Nàng còn thiết chi ăn với uống? Chắc chắn vào đó mọi tia nhìn sẽ đổ dồn về nàng và họ sẽ xì xào không ngớt. Hơn thế nữa, Mary đang phân vân: như có một tiếng nói vô hình cảnh cáo nàng: “Chớ đến Lữ quán Giao Mai! Hãy bỏ cuộc hành trình nầy. Hãy ở lại Bodmin, nếu không…sẽ hối cho mà xem!” Mary e rằng vào đến khách sạn Hoàng Gia nàng sẽ nghe theo lời cảnh cáo. Mary nhớ lời hứa với mẹ và muốn giữ được lời hứa đó.
- Nếu cô không ăn uống chi thì ta phải đi ngay. Cô là hành khách độc nhất chiều nay. Cô lấy thêm tấm chăn đắp chân lại cho đỡ rét. Khỏi Bodmin, tôi sẽ cho ngựa chạy nhanh vì đêm nay không thích hợp cho những chuyến đi như thế nầy. Nếu không vì cô, tôi có thể ngủ yên giấc trên giường, nhưng biết làm sao…
Bác đóng sập cửa lại và ngồi vào chỗ, chiếc xe cọc cạch lăn bánh…
Hai bên đường là nhà cửa. Bên trong người ta an toàn và ấm cúng với ánh sáng tỏa ra từ các cửa sổ. Những bộ hành trễ nải cúi đầu bước vội giữa mưa gió để kịp về nhà.
Qua khe cửa Mary nhìn thấy ánh sáng le lói, ánh sáng đối với nàng thật như bạn quí lúc nầy. Nàng lại liên tưởng đến người đàn bà vui tính trên xe lúc nãy. Chắc bà ta đang ăn tối, lũ trẻ kháu khỉnh quây quần xung quanh. Chao! Trông bà ta phúc hậu làm sao, hai má đỏ như hai quả táo chín và đôi tay gân guốc vì làm việc! Giọng nói của bà ta làm người nghe yên tâm…
Mary lại tưởng tượng thêm: nàng theo người đàn bà ấy, ở nhờ nhà bà ta. Nàng sẽ tìm được nơi bà ta sự tin cẩn, một nụ cười, một bàn tay thân yên, một cái giường an toàn. Nàng sẽ giúp việc cho bà ta, yêu mến bà và lũ con bà… Nàng sẽ…
Xe đang lên đèo. Qua cửa kính, nàng thấy ánh sáng của thành phố Bodmin khuất nhanh sau vó ngựa. Nàng chỉ còn một mình với gió và mưa. Bóng tối vây quanh. Còn những 12 dặm nữa mới đến nơi. Phải chăng nàng là một con tàu rời bến, mất hết an toàn của đất liền? Dù thật thế đi chăng, không con tàu nào có một số phận như nàng hiện tại!
Xe tối om, chỉ một tia sáng mong manh vàng vọt từ một chiếc đèn nhỏ xíu treo cạnh cửa. Gió luồn vào kẽ nứt trên xe làm ngọn lửa chao qua đảo lại và có thể làm cháy nệm xe. Thấy thế, nàng phải tắt đèn đi.
Ngồi co ro trong một góc, mặc cho xe lắc lư tiến tới trong bóng tối, hết nghiêng bên phải lại nghiêng bên trái: lần thứ nhất trong đời, Mary cảm thấy tính chất ma quái của sự cô đơn. Cái xe đã đưa nàng đi trọn ngày, giờ đây cũng như đe doạ nàng. Gió hú trên nóc xe và mưa tuôn như thác đổ. Gió mưa càng hung hãn khi xe càng lên dốc, trống vắng bốn bề. Hai bên đường đồng hoang trải dài vô tận. Không làng mạc, không cây cối, không cả một chòi tranh. Hàng dặm tiếp, chỉ thấy đồng hoang lạnh lẽo, đất đai cằn cỗi, không vết dấu loài người.
Mary nghĩ rằng không ai có thể sống trong vùng nầy mà vẫn giữ được nhân tính bình thường. Trẻ con sinh ở đây hẳn cũng khẳng khiu, khô khan, cằn cỗi như những cành hoa dại uốn mình dưới sức mạnh bạo cuồng của gió, gió liên hồi từ bốn phía xô vào. Ðầu óc nó chắc cũng chức đầy tư tưởng ma quái nếu cứ sống mãi trong đồng hoang đầy sỏi đá?
Dường như đoạn đường dài ngăn cách Bodmin với Launceston chỉ có một ngôi nhà độc nhất, không có cả một cái chòi cho bọn chăn cừu. Chỉ một chấm đen hiện ra giữa đồng vắng: Lữ quán Giao Mai!
Nàng như không ý thức được thời gian lẫn không gian. Có thể đoạn đường dài hàng trăm dặm? Có thể lúc nầy là giữa khuya? Nàng chỉ còn bám víu vào cái xe và người phu xe. Nàng còn được che chở…
Tiếng hò hét của bác ta thoảng đến tai nàng, nhờ gió. Càng lúc ngựa càng chạy nhanh hơn. Kéo cửa kính xuống, Mary nhìn ra ngoài, gió và mưa thi nhau ập vào mặt nàng làm Mary choáng váng. Lau mặt và vén tóc cố nhìn, Mary trông thấy xe chạy như lướt trên đồi. Trước mặt nàng, trên cao, về phía trái một ngôi nhà sừng sững giữa đồng không. Qua bóng đêm, nàng thấy ống khói thật cao. Không còn gì khác. Ðúng là lữ quán Giao Mai, sừng sững và ngạo nghễ giữa bốn bề quạnh hiu, mưa gió.
Mary mặc áo tơi vào. Ðàn ngựa dừng lại thình lình, hơi thở chúng làm thành những làn khói trắng dưới mưa đêm.
Bác phu xuống xe, mở cửa kéo cái rương của nàng ra. Ông ta có dáng vội vã chưa từng thấy. Ông ta lấm lét nhìn về phía lữ quán:
- Ðến nơi rồi. Cô chỉ băng qua sân là tới nhà. Hãy kéo chuông… họ sẽ mở cho. Tôi phải đi ngay cho kịp...
Trong một nhoáng, bác ta lên xe và quất ngựa một cách nóng nảy. Chiếc xe lại lăn bánh, chỉ chớp mắt, xe đổ dốc rồi mất hút trong bóng tối phủ dầy.
Mary đứng lặng, cái rương để dưới chân. Nàng nghe tiếng ổ khóa lách cách trong ngôi nhà kỳ bí vang lên rồi cửa hé mở và một bóng người cao lớn bước ra, trên tay có chiếc đèn lồng:
- Ai đó? Muốn gì đấy?
Mary bước đến, giương mắt nhìn người đàn ông nhưng ánh sáng làm nàng chói mắt, chả thấy được gì. Ông ta chao qua, chao lại chiếc đèn trước mắt nàng, đoạn phá lên cười:
- Ồ! Cô đấy à? Cô đã đến đấy ư? Cô cháu quí của vợ tôi? Chú cô đây: Joss Merlyn đây! Mừng cô mới đến…
Ông lại cười ha hả trong lúc Mary sửng sốt, bàng hoàng…
Chương 2
Ðó là một người đàn ông khoảng trung niên, to lớn, cao hơn hai thước. Trán nhăn nheo, da màu sậm như dân du mục, tóc dầy, đen lòa xòa trước trán và dài đến tận tai. Ðôi vai rộng và rắn chắc khiến Mary có cảm tưởng ông ta khỏe mạnh như một con ngựa. Hai cánh tay dài tận gối, nắm tay to tựa như khúc dồi. Cái thân hình lực lưỡng đó lại chở một cái đầu nhỏ xíu nhô lên giữa hai vai. Với mớ tóc rối bù, dầy kịt và đôi mày đen rậm, nom ông ta tựa một con khỉ đột khổng lồ.
Mặc dù tay chân dài ngoằng, thân hình vạm vỡ, mặt ông ta trái lại không có vẻ… khỉ chút nào. Mũi cao, dài, quặp vào gần đến miệng, và miệng ông ta tuy hai mép xệ xuống nhưng vẫn còn phảng phất chút duyên dáng nào đó. Ðôi mắt ông ta thật đẹp mặc dù da chung quanh nhăn nheo và có nhiều tia máu nổi lên. Khi ông ta cười, hai hàm răng trắng bóng, nổi bật trên khuôn mặt nâu sậm, và lúc ấy, Mary lại nghĩ đến một con sói dữ. Ông ta nói:
- Mary Yellan! Cô đã lặn lội từ xa đến đây để chăm sóc cho chú Joss đấy ư? Cô tốt quá!
Giọng ngạo nghễ, ông ta lại cười hăng hắc, tiếng cười gần như tiếng gầm, vang khắp nhà, như một làn roi quất vào bộ thần kinh đang căng thẳng của Mary. Nàng cố trấn tĩnh, nhìn quanh khắp hành lang rộng vắng:
- Thưa chú, dì con đâu ạ? Dì con không đợi con sao?
- Thưa chú, dì con đâu ạ? (Ông ta nhại giọng Mary.) Dì thân yêu nhỏ bé của cháu đâu? Sao không ra đây hôn cháu nhỉ? (Giọng cục cằn trở lại) Dễ cô không đợi được một phút sao? Cô không hôn chú Joss của cô sao?
Mary lùi lại, hoảng hốt trước ý nghĩ phải hôn ông chú… Ông quả điên hay đang say? Có thể vừa điên lại vừa say? Như đoán được ý Mary, Joss nói oang oang:
- Không sao đâu. Cứ yên chí lớn, tôi không động đến cô đâu. Cô sẽ sống an toàn tại đây. Vả, tôi còn khối việc phải lo…
Ông ta nhìn nàng, vẻ ngạo nghễ như ta nhìn vào con vật hay một kẻ ngu si. Sau rốt, chán trò trêu chọc, ông ta đến cầu thang quát:
- Patience! Mụ làm gì trên ấy? Con nhỏ đã đến và đang khóc đòi gặp mụ ngay đây!
Có tiếng động sẽ sàng trên cầu thang, tiếng bước chân, rồi ánh sáng le lói của ngọn nến và một tiếng reo khẽ. Bà dì bước xuống, tay che mắt, một chiếc khăn quàng bẩn thỉu, mớ tóc xám, vài lọn xỏa lên vai; khuôn mặt gầy gò, hai má nhô cao. Ðôi mắt mở to như luôn luôn muốn hỏi, môi mím chặt.
Dì Patience mặc một cái áo có sọc. Chắc lúc trước màu hồng tươi nhưng giờ trở thành hồng bẩn. Chiếc khăn quàng vá víu thảm hại. Một dây nơ mới tinh trên đầu tóc càng làm cho sự tiều tụy của dì bộc lộ rõ ràng hơn.
Mary nhìn dì buồn bã không thốt nên lời. Người đàn bà đáng thương kia là dì nàng ư? Dì Patience quyến rũ, xinh tươi mà nàng thường hình dung đến lại có thể già sọm như thế ư!
Dì Patience xuống cầu thang, tiến lại gần cháu gái, nắm tay cô, cất tiếng thì thầm:
- Cháu đó ư? Mary Yellan đó ư? Con người chị xấu số của dì đây!
Mary gật đầu, lòng thầm cảm ơn Chúa đã không để mẹ nàng trông thấy dì trong tình trạng thảm não nầy. Nàng nhỏ nhẹ nói:
- Dì yêu kính! Con sung sướng được gặp lại dì. Bao nhiêu năm trời nay… từ khi dì đến Helford!...
Dì Patience lặng lẽ vuốt ve cháu rồi bỗng bà ôm chặt Mary, gục đầu vào vai nàng, khóc thổn thức, nghẹn ngào.
- Thôi! Đủ rồi đó! (Joss càu nhàu) Tiếp đón cái kiểu gì kỳ cục vậy? Việc gì mà khóc lóc? Dễ chừng mụ không thấy rằng con bé cần ăn tối hay sao? Coi lo cho nó ăn uống.
Nói xong, Joss cúi xuống, vác cái rương lên vai nom dễ dàng, nhẹ như ta nâng một cái gói nhỏ.
- Tôi mang cái rương của nó lên phòng…! Chốc nữa tôi xuống mà chưa có gì cho nó ăn, tôi sẽ cho mụ khóc bằng thích. Cả cô cũng thế, Mary ạ! Nào! Cô đã thuần tính chưa hay còn… ưa cắn.
Lão dí ngón tay vào miệng Mary rồi cười hăng hắc lần nữa, trước khi lên gác.
Dì Patience nín khóc, cố cười với cháu, nhưng nụ cười méo mó thảm thương. Dì đưa tay lên vén mấy lọn tóc, một cử chỉ quen thuộc đối với Mary. Mắt dì nhíu lại, môi mím chặt, lặng lẽ dì dắt Mary đi qua một hành lang khác tối om, vào bếp. Ba ngọn nến soi sáng căn bếp tồi tàn và trong lò đốt than bùn. Nom dì có vẻ một con vật đáng thương, chỉ biết tuyệt đối phục tòng và chịu đựng mọi đối xử độc ác.
Dì nói:
- Ðừng để ý đến thái độ của chú con, ông làm gì mặc ông, người lạ không thể hiểu đâu. Chú vẫn là người tốt… tốt nhất…
Dì tiếp tục ca tụng chồng trong khi sửa soạn bữa ăn cho cháu. Mary ngồi trước ngọn lửa, sưởi ấm đôi tay lạnh cóng. Khói từ bếp tỏa ra bay tận nóc và vương khắp gian nhà, làm cay mắt cô gái vào cả mũi, miệng cô…
- Rồi con sẽ hiểu và thương yêu ông ấy. Ông rất đặc biệt, mọi người đều kính nể ông, chả ai chỉ trích ông. Ðôi khi ở đây có đông khách, không phải lúc nào cũng yên tĩnh đâu, con ạ! Xe qua lại trên quốc lộ mỗi ngày… Nhiều người danh giá đến đây. Hôm qua, một người đến chơi, dì biếu anh ta một ổ bánh. Anh ta nói: “Ở vùng nầy chỉ có bà làm bánh ngon nhất”. Ông Bassat ở North Hill, một địa chủ lớn trong vùng, hôm thứ năm gặp dì đã nghiêng mình, cất mũ chào dì rất nhã nhặn. Người ta nói rằng…
Mary khổ sở thấy dì tránh nhìn mình trong khi nói và sự liến thoắng tố cáo lời dì không đúng sự thật. Trông dì như đứa trẻ bịa chuyện một cách vụng về. Nàng mong cho dì ngừng lời, vì lời nói của bà cũng làm nàng đau xót như khi bà khóc. Có tiếng chân phía sau, Mary hồi hộp quá: nàng biết chú Joss đã xuống và có thể nghe được những lời vợ nói. Dì Patience tái mặt và lại bắt đầu cắn môi. Lão nhìn cả hai giọng chế diễu:
- Sao? Mấy chị mái ghẹ bắt đầu rù rì đó ư?
Lão bỗng thôi giữ vẻ diễu cợt, nhíu mày gắt vợ:
- Mụ nín khóc ngay nếu mụ nói thả cửa kiểu đó, phải không? Ta nghe mụ nói gì rồi, đừng có ngốc! Mụ tưởng rằng cháu mụ có thể tin những điều mụ nói ư? Một đứa trẻ cũng không tin nữa là.
Joss hầm hầm ngồi xuống cái ghế đặt cạnh bàn ăn, ngồi mạnh đến nỗi ghế gần muốn đổ. Rồi ông ta vơ ổ bánh cắt một khúc bôi bơ lên, nhai ngấu nghiến bơ chảy dài xuống khóe miệng. Lão ra hiệu cho Mary lại gần:
- Lại đây! Tôi biết cô đang đói…
Bằng cử chỉ thành thạo, Joss cắt một lát bánh mỏng, phết bơ lên, trái ngược với cách ăn của lão. Mary rùng mình khi thấy một kẻ thô lỗ như lão lại có cử chỉ tế nhị, hình như những ngón tay lão có tiềm lực trở nên khéo léo hay hung bạo tùy từng lúc. Giá lão cắt một khúc bánh to, vứt cho nàng, lại dễ chịu hơn, vì cử chỉ phù hợp với con người lão; đằng nầy cái lịch sự của lão đầy vẻ mờ ám, nham hiểm và quá bất ngờ. Tuy nhiên, nàng điềm tĩnh cảm ơn lão rồi ăn.
Dì nàng, suốt từ lúc lão xuất hiện trong bếp lại trở nên câm nín, bà chăm chú chiên thịt, luống cuống cho đến nỗi cái chảo rơi xuống trong sự hốt hoảng của dì. Mary toan đứng lên giúp dì thì Joss ngăn lại:
- Thôi! Một người ngu quá đủ rồi! Ngồi yên đó!
Mary biết mình đang bị chú nàng quan sát sau lưng. Lão vừa xỉa răng bằng móng tay, vừa hỏi:
- Cô uống gì đây? Rượu chát? Rượu ngọt hay bia? Ở đây có thể chết đói chớ không chết khát đâu. Lữ quán Giao Mai nầy không để cho ai khô cổ…
Lão lại cười, nheo mắt và tặc lưỡi. Mary bình tĩnh:
- Cho cháu xin tách trà, cháu không quen uống rượu.
- Uống trà? Chao ơi! Lạy Chúa tôi! Cô có cần một cái nôi không?
Và lão chộp lấy bàn tay cô gái:
- Bàn tay nầy trông khá lắm đối với một kẻ ở nông trại. Tôi chỉ ngán phải thấy những bàn tay thô kệch. Không gì nản bằng phải nhìn bàn tay xấu xí rót rượu cho mình, không phải khách hàng ở đây khó tính nhưng chưa bao giờ Lữ quán Giao Mai có mặt một thiếu nữ như cô.
Buông tay Mary, lão quay sang vợ:
- Patience! Chìa khóa đây, vô kho lấy cho tôi chai rượu chát. Khát lắm!
Dì nàng nhanh nhẹn bước ra, mất hút sau dãy hành lang. Lão tiếp tục dùng móng tay xỉa răng, chốc chốc lại huýt sáo trong khi Mary lặng lẽ ăn bánh mì và uống trà. Ðầu nàng nặng như có ai cột chì vào. Khói làm nàng cay mắt thêm; nhưng nàng vẫn tỉnh táo quan sát Joss. Hình như nàng bị lây sự sợ hãi của dì: nàng linh cảm mình và dì là hai con chuột nhắt sa bẫy và chú Joss là con mèo ác độc không chịu giết dì cháu nàng ngay…
Dì Patience trở lại với chai rượu trên tay. Rồi trong lúc chồng uống rượu, dì tiếp tục chiên thịt, đoạn dọn lên, hai dì cháu cùng ăn.
Ðột nhiên, Joss trở nên cau có, lão đá đá vào gầm bàn và đập mạnh tay xuống bàn. Ly, tách, dĩa xô vào nhau, một cái muỗng rơi xuống đất vỡ nát.
Lão quát:
- Nghe đây: Mary Yellan! Tôi là chủ nhà nầy, cô phải biết điều đó. Tôi bảo cô làm gì thì cô làm nấy. Giúp việc trong bếp, dọn dẹp nhà cửa và phục vụ khách hàng. Tôi sẽ không động đến một sợi tóc của cô. Nhưng nếu cô giở thói bép xép tò mò thì cô sẽ biết tay tôi!
Mary thu hết can đảm nhìn Joss.
Nàng đặt hai tay lên đùi để lão khỏi thấy nàng… run:
- Cháu hiểu điều đó. Cháu không có thói tò mò và xen vào chuyện kẻ khác. Chú làm gì cháu không quan tâm đến, cháu sẽ lo tròn phận sự. Nhưng xin chú nhớ cho: nếu chú hành hạ dì cháu, cháu sẽ rời lữ quán tức thì, cháu sẽ báo cho cảnh sát ngay. Cháu xin thề…
Mặt nàng tái mét. Nếu Joss lớn tiếng dọa nàng, chắc nàng sẽ khóc và khiếp sợ thêm lên. Nàng đã thốt những lời cứng cỏi vì quá thương dì, không tự chủ nổi. Nhưng nói xong, nàng lo lắng quá.
Không ngờ những lời nàng có ích cho nàng.
Joss bật ngửa ghế ngồi ra, có vẻ nguôi giận:
- Tốt! Tốt quá! Ta đã biết cô là thứ người gì! Ta ưa những kẻ có gan. Ta tin rằng một ngày kia cô sẽ có việc xứng đáng với cái gan to lớn đó.
Mary nghe tiếng dì nàng thở hổn hển bên cạnh nàng, dì nói:
- Ồ! Joss! Tôi van anh! Tôi van anh!
Giọng dì khẩn khoản đến nỗi Mary kinh ngạc, nàng thấy dì chồm đến gần Joss và ra dấu cho lão im đi. Cằm bà run run và đôi mắt lo sợ của bà làm Mary càng hãi. Làm sao mà dì nàng khiếp sợ đến mức nầy? Joss định nói gì? Mary không thể nén tò mò. Người đàn ông nóng nảy xua tay:
- Ði ngủ đi! Ta chán cái khuôn mặt đưa ma của mụ. Cháu mụ khá hơn.
Dì Patience đứng lên, ra khỏi phòng, nhưng còn ngoái lại nhìn chồng bằng cái nhìn tuyệt vọng. Tiếng chân dì xa dần trên cầu thang. Joss đẩy cái ly không đến gần Mary:
- Ðời tôi chỉ có một nhược điểm và tôi nói cho cô nghe đây: Rượu! Ðó là một điều bất hạnh, tôi biết thế mà không tránh được. Có một ngày, nó sẽ hại tôi. Có khi, tôi uống ít như hôm nay, có nhiều hôm khác, tôi uống như hũ chìm, uống liền trong nhiều giờ… Rượu là sức mạnh, là đồng minh, là đàn bà, là thiên đàng… Lúc đó tôi như một vị Hoàng Ðế, tôi có cảm tưởng tôi nắm trong tay nhiều quyền hạn sinh sát… Và tôi kể toạc ra những tội ác đã nhúng tay vào, dì cô phải nhốt tôi vào phòng khóa cửa lại. Rồi khi tôi tỉnh lại, tôi mới được ra. Không ai, trừ dì cô được biết những bí mật của tôi. Gìờ lại thêm cô nữa, tôi tiết lộ với cô vì tôi đã chuếnh choáng say không kìm giữ miệng lưỡi nổi, nhưng tôi chưa đến nỗi mất cả lý trí, tôi không kể hết cho cô nghe…
Giọng ông ta lè nhè nhưng vẫn ồm ồm. Than trong lò tàn dần, bóng tối đã nhoài đến nhiều nơi trên vách, nến gần tắt, ánh sáng leo lét làm bóng Joss nổi bật lên quái đản.
- Mary Yellan! Ta muốn kể chuyện nầy… ô, không! Ta còn sáng suốt lắm… Ðừng nghe lời dì cô, đừng tin rằng lão địa chủ đã ngả mũ chào mụ. Láo! Láo toét! Lão mà thấy tôi đàng xa là lo dông thẳng trước khi làm dấu thánh giá. Xe cộ cũng chả dám ngừng lại đây. Bọn trưởng giả mà dám đến đây ư? Nhưng chả sao, tôi đâu cần chúng? Tôi có đủ khách hàng mà! Tụi trưởng giả càng tếch xa, tôi càng thích.
Mary lặng lẽ nghe, ngồi cứng trong ghế, không dám cử động như sợ lão sẽ nổi giận mà đổi thái độ chăng? Joss vẫn thao thao:
- Bọn chúng đều ngán ta, tất cả bọn ngu ngốc đó. Ta mà được giáo dục đàng hoàng thì ta sẽ ngồi cạnh vua George ấy chứ, sá gì thứ chúng? Chính rượu hại ta! Chưa có một ai trong dòng Merlyn ta chết yên ổn trên giường…
Lão ngừng lại, tợp một ngụm rượu, rồi lại tiếp:
- Cha ta bị treo cổ vì tội giết người. Ông nội ta bị xẻo tai về tội ăn trộm và sau đó, ông bị đày biệt xứ, chết thảm vì rắn cắn. Ta là anh cả, ta có hai em. Thằng em kế của ta chết đuối trong đầm Trywartha. Thằng quỷ Jean, thằng út thì khi chúng ta vào tuổi thanh niên, nó hãy còn bú mẹ ta, nhưng nó khôn ranh lắm. Và nó lại không hợp với ta. Một ngày kia nó sẽ bị tóm và bị treo cổ cho mà xem.
Joss chợt im. Hai mắt nhìn đăm đăm vào cái ly, nâng lên lại đặt xuống:
- Thôi! Đêm nay cô biết quá nhiều rồi, đi ngủ đi, kẻo tôi vặn cổ bây giờ. Đèn đây, phòng cô ngay trên cổng chính đó.
Mary yên lặng đón ngọn nến trên tay lão. Nàng sắp quay lưng đi thì bị lão nắm lấy vai, giật lại:
- Đang ngủ mà nghe tiếng xe dừng trước quán, cô vẫn nằm yên, nghe chưa? Lấy chăn mà trùm đầu cho kín, nghe chưa? Chớ khá tò mò mà nghẽo, nghe chưa? Hiểu chưa?
- Thưa chú, cháu hiểu rồi!
- Vậy thì tốt! Nếu trái lời tôi, cô sẽ bị dập xương đa!
Mary bước ra hành lang tối thui về phòng mình theo lời ông chú hung tợn. Đến nơi, Mary đẩy cửa vào, thấy rương mình nằm đó, nàng yên lòng biết mình không nhầm phòng. Vách nhám sì, không dán giấy, trần nhà cũng thế. Một cái thùng gỗ trên đặt một tấm gương nứt được thay cho bàn chải tóc. Không có thau rửa mặt. Chắc mình phải xuống bếp rửa mặt? Mary tự hỏi. Khi nàng nằm xuống, giường run lên ken két và hai cái chăn mỏng như nhơm nhớp ướt. Mary quyết định không thay áo. Nàng để nguyên bộ áo quần bụi bặm và khoác thêm áo ngoài mà ngủ.
Mary đến cửa sổ nhìn ra ngoài. Gió lặng rồi tuy mưa vẫn chưa ngớt. Có tiếng động kỳ dị vang lên. Trời tối quá nên Mary không thấy gì rõ, nhưng một vật treo lủng lẳng làm nàng hoảng hốt nhớ đến lời Joss Merlyn… Ðịnh thần nhìn kỹ nàng biết đó là tấm bảng chỉ dẫn, tấm bảng đong đưa theo gió, cũ kỹ đáng thương chắc đã trải qua những ngày tốt đẹp? Những dòng chữ trắng tắm nắng, gội mưa đã trở thành xám xịt: Lữ quán Giao Mai!... Lữ quán Giao Mai…
Mary đóng cửa rồi lên giường. Hai hàm răng nàng va vào nhau cầm cập, tay chân lạnh cóng. Mary tuyệt vọng: nàng làm cách nào để trở lại Bodmin cách đây những 12 dặm? Nàng nhắm hai mắt lại, đồng thời khuôn mặt Joss hiện ra, ban đầu ông ta tươi cười tử tế rồi trở thành nhăn nhó, giận dữ. Mớ tóc dầy đen kịt bù rối, chiếc mũi quặm và hai bàn tay với những ngón dài, xinh đẹp và… lợi hại… Nàng cảm thấy mình như một con chim sa lưới, khó lòng thoát khỏi.
“Mary! Muốn thoát khỏi đây, mình phải trốn ngay đêm nay. Ðến mai quá muộn!”
Có tiếng nói với nàng như thế, nhưng Mary vẫn nằm yên lặng, lắng tai.
Có tiếng động ở cầu thang, tiếng Joss lầu bầu gì đó rồi xa dần. Mary không do dự nữa, nàng không muốn sẽ trở nên khùng khùng như dì nàng.
...............................................................
bạn đang đọc truyện tại chúc các bạn vui vẻ
....................................................................
Chương 3
Mary chợt tỉnh giấc. Gió từ hướng Tây thổi mạnh và nắng yếu ớt chiếu vào phòng. Tiếng cửa gỗ lay động đã đánh thức cô gái. Nhìn màu trời nàng biết chắc đã hơn tám giờ rồi. Nhìn xuống sân, Mary thấy cửa chuồng ngựa mở rộng và có dấu giầy mới in lên bùn. Nàng cảm thấy nhẹ nhõm khi biết chú Joss đã ra ngoài. Mary vội vàng mở rương lấy cái váy dầy, cái tạp dề màu và đôi giầy gỗ thô mà nàng vẫn thường dùng ở trại. 10 phút kế đó, nàng xuống bếp, rửa mặt phía sau.
Dì Patience bước ra khỏi vòng rào dành nuôi gà, túm trong tạp dề mấy quả trứng. Dì đưa ra cho Mary thấy:
- Dì tin là cháu sẽ thích khi có trứng để ăn sáng nay. Chiều qua, dì thấy cháu mệt quá không ăn được gì cả. Dì để dành cho cháu lọ mứt.
Nom dì tươi tỉnh, mặc dù đôi mắt thâm quầng chứng tỏ đêm qua thao thức lo âu. Mary nghĩ rằng chỉ khi nào có mặt chú Joss dì mình mới sợ sệt như đứa trẻ phạm lỗi. Khi ông ta đi vắng, dì dễ vui vì một điều nhỏ nhặt như luộc cho cháu cái trứng gà! Hai người cùng tránh nhắc lại việc đêm qua. Không nhắc đến cả tên Joss nữa, lão đi đâu, làm gì nàng không cần biết, chỉ thấy vui là đủ.
Mary biết dì không muốn bàn đến việc hiện tại. Bà có vẻ...sợ cháu hỏi. Mary chỉ kể những khó khăn mấy năm sau cùng ở Helford, về cái chết của mẹ. Mary thấy dì có vẻ cố sức mà không thể chú ý đến lời nàng. Những năm dài lo sợ bên cạnh chồng làm bà mất nhiều khả năng cần thiết; có một sự gì khủng khiếp đến nỗi bà trở thành ngờ ngẫn gần như trì độn?
Suốt sáng đó, Mary phụ dì trong công việc hằng ngày và dạo xem gần hết Lữ quán.
Ngôi nhà đầy bóng tối với những hành lang dài và những căn phòng kỳ lạ. Có một lối riêng biệt vào quầy rượu ở một bên nhà. Căn phòng tuy trống rỗng nhưng không khí bên trong nặng nề, chứng tỏ có một sự nhộn nhịp vừa qua, không lâu lắm: mùi rượu nồng hăng, hơi người ấm và bẩn trên những dãy ghế đen đủi. Trong toàn lữ quán, có lẽ chỉ phòng nầy là sống động nhất.
Các phòng khác hình như bị bỏ quên, không ai lui tới. Phòng khách ở cạnh cổng vào cũng trống vắng như đã nhiều tháng không ai đặt chân vào và sưởi ấm ở lò. Những phòng trên lầu càng tệ hơn, một phòng dùng làm kho. Nhiều thùng chất sát vách, trên phủ mấy tấm da ngựa rách nát vì chuột gặm. Phòng đối diện, khoai tây và củ cải chất đống trên cái giường hư nát.
Mary đoán rằng phòng nàng trước kia cũng như các phòng nầy. Giường tủ và bàn chải tóc chắc do dì nàng mới trang hoàng cho cháu. Mary tránh đến gần phòng dì và Joss ở hành lang bên kia.
Phía dưới giàn phòng nầy, có một hành lang song song với hành lang trên và ở đầu đối diện với gian bếp có một phòng khóa kín. Mary vòng ra sân, nhìn vào cửa sổ nhưng cửa sổ được che kín bằng một tấm ván đóng chặt vào đó nên nàng không thấy được gì.
Ngôi nhà và các dãy phụ chiếm bốn cạnh sân. Giữa là một bồn cỏ và hồ nước.
Trước mặt, con đường trải dài vô tận, quanh đó là đồng hoang, một màu nâu sẫm và ướt át vì mưa, Mary đến tận đường cái, quanh tầm mắt nàng chỉ có đồi đen đủi và ao tù. Lữ quán là ngôi nhà duy nhất t rong vùng, dù là một ngôi nhà xám chứa đầy bí ẩn và không có gì tỏ ra hiếu khách.
Phía tây là những ngọn núi đá sừng sựng, vài ngọn có cỏ mọc lưa thưa dưới ánh nắng yếu ớt của mùa đông cỏ vẫn úa vàng. Nhiều ngọn núi khác chỉ thấy chơm chởm đá.
Chốc chốc, ánh nắng bị một đám mây che khuất, tạo thành một bóng đen dài trên đồng hoang. Màu sắc cũng thay đổi: khi thì đồi núi tím thẫm như dấy mực, khi thì tia nắng xuyên qua mây làm ngọn đồi trở thành vàng, nâu... Nhiều ngọn khác chìm trong bóng tối.
Khung cảnh thay đổi liền liền: phía đông ánh nắng ban trưa rực rỡ và đồng hoang xem yên tĩnh như một sa mạc cát trong khi phía tây những ngọn đồi bị chế ngự bởi mùa đông buốt, thỉnh thoảng tối sầm do một đám mây... Không khí lạnh và thoang thoảng hương thơm tinh khiết của miền núi. Thật là một sự mới lạ với Mary, vì nàng chỉ quen với khung cảnh êm ả của Helford, với những rào dậu và những cây to che chở cho nên dù vào đông gió cũng không dữ dội. Mũi đất cao che chở cho những người sống dưới bóng nó, chỉ mình dòng sông xanh biếc cuồn cuộn, bọt tung trắng xóa, nom có khi hơi dữ tợn mà thôi.
Tuy nhiên, giữa hoang vu, man dã, đáng ghét, Mary cảm thấy trong không khí có sự kiêu hùng kỳ lạ, cuốn hút lấy nàng làm nàng như bị thách đố và không muốn lùi bước. Thốt nhiên, nàng cảm thấy thích thú, ưa mạo hiểm, thấy hăng hái trong lòng. Má nóng bừng, mắt ngời sáng, tóc tung bay trong gió lộng, Mary thu hồi được nghị lực, niềm tin một cách bất ngờ.
Mary thở mạnh, hít không khí ngọt ngào mát mẻ tinh khiết vào hai buồng phổi. Nàng đến bên hồ, mở vòi và ngâm hai tay xuống nước. Nước lạnh rợi, trong veo. Nàng vốc một ngụm đưa lên uống. Tuy nước ở đây khác xa nước nàng đã uống trong bếp, một vị chan chát quyện trong lưỡi, nàng thấy thích thú và đã khát ngay.
Mary như được bồi bổ cả thể xác lẫn tinh thần.
Nàng cảm thấy đói và nghĩ đến dì.
Mary ăn món thịt trừu hầm củ cải một cách ngon lành. Lần thứ nhất, sau 24 giờ chịu đựng Mary cảm thấy phấn khởi, bình tĩnh, can đảm. Mary gợi chuyện:
- Dì ơi, tại sao chú Joss lại làm chủ Lữ quán Giao Mai?
Sự tấn công bất ngờ và thẳng thắn của cô cháu làm dì lúng túng. Bà cắn môi, đỏ mặt giây lâu mới trả lời, ấp úng:
- Thì...con thấy đó: nơi nầy thuận tiện quá, quốc lộ chính từ Bắc đến Nam. Xe qua lại hai bận trong tuần. Họ đi từ Bodmin, Truno đến Launceston. Cũng như con đi hôm qua vậy mà... Họ du lịch, làm ăn, buôn bán...
- Đúng thế, nhưng tại sao họ không ghé Lữ quán Giao Mai?
- Họ dừng lại chớ! Họ đến quầy rượu để giải khát. Chúng ta có đông khách hàng...
- Sao dì có thể nói thế được? Phòng khách bỏ trống, phòng ngủ dùng làm kho, chứa đầy chuột...kia mà! Cháu thấy tận mắt, cháu đã nghỉ ở lữ quán nhỏ hơn đây. Trong làng cháu cũng có một cái. Mẹ cháu bạn với bà chủ, cháu có đến một lần. Trên lầu có hai phòng nhưng được trang hoàng tử tế cho khách.
Dì Patience im lặng giây lâu, lại cắn môi:
- Chú Joss không thích ai ở lại. Chú ghét ồn ào, vả lại ở một nơi vắng vẻ như chỗ nầy có thể nguy hiểm cho mình...
- Cháu không tin. Ghét ồn ào mà lại mở Lữ quán? Sợ nguy hiểm mà lại chọn một nơi vắng vẻ để làm ăn? Mà mở lữ quán để làm gì nếu không cho khách lương thiện ghé qua đêm? Dì nên thành thật với cháu: Lữ quán nầy được mở với mục đích gì? Và làm sao dì chú sống được nếu không tiếp khách?
- Dì đã nói rồi, chúng ta có khách hàng mà! (Giọng dì nóng nảy) Nhiều bữa, quầy rượu chật khách...
- Hôm qua, bác phu xe nói với cháu là những người tự trọng không hề ghé lại đây. Họ sợ!
Mary gằn từng tiếng.
Dì Patience tái mặt, mắt dì lộ vẻ hốt hoảng, dì nuốt nước bọt, thì thào:
- Chú Joss nóng như lửa, cháu thấy đó, chú không muốn ai xen vô chuyện riêng.
- Nhưng thưa dì, ai dòm ngó chi công việc của một ông chủ quán lương thiện? Dù cho chú nóng tính, đâu đến nỗi người ta phải chạy trốn? Đây không phải là lý do chính đáng.
Dì không cãi được. Mary tìm cách khác khơi chuyện:
- Tại sao dì đến đây? Mẹ con vẫn ngỡ là dì ở Bodmin...
- Dì gặp chú ở Bodmin nhưng không ở đó. Chú mua Lữ quán nầy của ông Bassat. Quán bỏ trống nhiều năm về trước, chú con muốn ở đây cho tới già, tới chết. Hồi xưa, ổng đi đây đó dữ lắm. Qua tận Mỹ Châu cơ.
- Chú chọn nơi hoang vu nầy để dưỡng già, kể cũng...lạ.
- Đây là nơi sinh trưởng của chú đấy chớ, cách đây vài dặm thôi. Em trai chú, thằng Jean vẫn ở trong căn nhà tổ phụ. Lâu lâu, nó có đến đây, nhưng...chú Joss không ưa em Jean của chú.
- Ông Bassat có đến đây không, thưa dì?
- Không.
- Sao vậy dì?
- Có sự hiểu lầm. Chú mua ngôi nhà nầy qua sự trung gian của người bạn. Ông Bassat chỉ biết chủ mới là chú khi chú dọn về đây. Ông ấy không bằng lòng.
- Can gì đến ông ấy? Bán thì người ta mua chứ?
- Xưa kia lúc còn ở Trewartha, nghĩa là lúc trẻ, chú con nổi tiếng hung tợn. Không phải lỗi ông, dòng họ Merlyn toàn man rợ thế cả. Thằng Jean còn tệ hơn chú nhiều. Nhưng ông Bassat nghe lời thiên hạ thêm thắt nên ghét chú con. Ông tức giận khi biết chú con mua Lữ quán của ông. Chỉ có thế thôi, con ạ!
Dì tựa lưng vào ghế, có vẻ mệt nhọc vì bị chất vấn. Mắt bà như van lơn cháu đừng cật vấn chi thêm. Nhưng Mary lạnh lùng tìm hiểu:
- Dì ơi! Dì hãy nói thật cho cháu biết, hãy nhìn cháu đây: căn phòng bí mật ở đầu hành lang có liên lạc gì với những xe cộ dừng lại ban đêm không?
Trễ quá rồi: Mary chợt hối nhưng đã muộn. Dì nàng xanh ngắt, môi run rẩy, mắt lạc thần, bà đưa hai tay che cổ, sợ hãi tột cùng. Mary quì xuống cạnh dì, tay quàng lấy cổ dì, ôm chặt bà và hôn lên tóc bà. Nàng run rẩy:
- Dì tha lỗi cho con? Con vụng về và quá tò mò. Con xấu hổ lắm, xin dì quên những gì con vừa hỏi.
Dì Patience im lặng, tay ôm lấy mặt. Mary vuốt ve và hôn tay dì. Rồi bà bỏ tay che mặt ra, mắt bớt vẻ kinh hoàng, bà nắm tay cháu, thều thào:
- Mary, di không che dấu cháu, nhưng sự thật có nhiều điều dì cũng không biết hết... Nhưng vì cháu là cháu dì, con của người chị yêu quí, dì phải báo trước cho cháu biết...
Bà nhìn nhớn nhác như sợ Joss hiện ra bất ngờ siết cổ mình:
- Có những điều xảy ra tại đây mà dì không bao giờ dám nghĩ đến hay nói đến. Những chuyện đáng sợ: chú Joss liên lạc với nhiều người kỳ lạ và lối mua bán cũng rất lạ. Có đêm, họ đến đây. Từ cửa sổ phòng con trên cổng chính con có thể nghe họ gõ cửa. Chú con sẽ mở cửa và đưa họ đi dọc theo hành lang đến căn phòng bí mật. Họ trò chuyện rất lâu và rút lui trước khi trời sáng. Mary! Khi họ đến, con nhớ cứ nằm yên, lấy gối bịt tai lại. Nếu con hỏi đến chuyện họ, con biết được một nửa câu chuyện của họ, tóc con sẽ bạc như dì đây. Con sẽ không rão lệ mỗi đêm và run giọng khi cất tiếng. Tuổi trẻ và sự vô tư của con sẽ biến mất như dì vậy. Đừng quên lời dì...
Dì đứng lên xô ghế ra. Mary nghe tiếng chân dì lên thang một cách uể oải, mệt nhọc và dì nằm lì suốt buổi trong phòng.
Mary ngồi bên cạnh chiếc ghế không. Xuyên qua khung cửa kính, ánh mặt trời tắt sau ngọn đồi xa nhất và mầu xám của trời đông lại bao phủ khắp Lữ quán Giao Mai.
***
Joss vắng mặt cả tuần, Mary có dịp dạo khắp vùng. Nàng chả bận rộn gì nhiều ngoài việc giúp dì làm bếp và lau dọn trong nhà. Nàng rong chơi tự do, sau bữa ăn trưa. Dì nàng thì không rời khỏi khuôn viên nhà bếp và chuồng gà. Bà không ưa đi dạo.
Mary được mặt trời hướng dẫn và nhờ sự hiểu biết thông thường của một nông dân, nên rất vững lòng. Đồng hoang còn man rợ hơn Mary tưởng: rộng như sa mạc, nó chạy dài từ đông sang tây. Vài ngọn đồi cao hiện ra ở chân trời. Nàng không biết giới hạn của nó ra sao, cho đến một ngày nọ nàng đi về hướng tây, leo qua núi đá cao nhất sau lữ quán nàng chợt thấy biển cả lấp lánh dưới nắng. Nhưng đây là vùng yên lặng, vắng vẻ đến rợn người. Trên núi, những khối đá tựa vào nhau tạo nên những hình thù quái dị, nom như những tên lính do Thượng Đế cắt đặt đứng canh tại đó. Vài khối đá khác trông như một bộ bàn ghế, cũng có những khối khác nhỏ hơn, nom hiền lành như một gã khổng lồ nằm che hết các bụi gai. Có phiến phẳng, có phiến dài, có phiến nhẵn như mặt bàn thờ, ngửa mặt chờ cuộc tế. Những đàn trừu hoang sống tại núi đá và quạ, và diều hâu. Đồi là tổ ấm của những sinh vật cô đơn. Đàn bò ăn cỏ trên đồng hoang, tìm đất cứng mà đến, chúng tránh những đám cỏ ngon lành nhưng thật ra không phải là một bãi cỏ mà là một vũng lầy đáng sợ.
Khi gió nổi lên, có tiếng ngân vang như tiếng hú trong các hốc đá, khi lại rên rỉ bi ai. Mary không biết gió từ hướng nào ào đến, nó trườn đi như một con vật vô hình trên mặt cỏ và cỏ rung động; nó lướt trên những vũng nước mưa động trong hốc đá, nước gợn sóng lên...
Trên những phiến đá, sự im lặng ngự trị, im lặng kỳ bí mênh mông. Như là sự im lặng của một kỷ nguyên khác, thời chưa có vết chân người trên quả đất. Sự yên tĩnh lạ lùng, đe dọa, không phải là sự yêu tĩnh được vây bọc trong tình thương và sự chở che của Chúa.
Mary băng qua đồng, leo lên núi đá, ngồi nghỉ trong một hốc đá, cạnh nguồn nước: lòng hồi hộp nàng nghĩ đến thời thơ ấu của Joss Merlyn, đến đóa hoa dại bị gió dữ cuốn đi trên bụi gai cằn cỗi.
Hôm khác, nàng lại băng đồng qua hướng đông, đến một ngọn đồi bao bọc bởi đồng hoang, không được khai khẩn. Đồng hoang nầy lại xuôi xuống một đầm lầy to, sâu, giữa có một dòng suối con, tiếng suối reo róc rách.
Bên kia đầm lầy là một khối đá sừng sững. Người ta có cảm tưởng như bàn tay xuất hiện từ dưới đầm lầy, đưa mấy ngón lên trời, bề mặt như được đẽo trong đá hoa cương, màu xám buồn buồn. Đó là ngọn Kilmar - Tor. Joss Merlyn đã sinh ra tại núi đá nầy và Matthew, em ông đã chết đuối trong đầm kia. Nàng tưởng tượng đến một gã trai trẻ băng qua đồng, miệng huýt sáo vui vẻ, bên tai có nhạc suối phụ họa... Rồi, trời sập tối quá nhanh làm anh ta không kịp đề phòng... Anh ta dừng lại, do dự một giây rồi chặc lưỡi bước tràn, được mươi bước thì anh ta bị lún xuống, bùn ngập gối, anh ta vừa chửi thề vừa cố sức rút chân lên nhưng quá muộn: càng phút càng bị lún sâu hơn, anh quờ quạng bám vào một đám cỏ, nhưng vô ích. Anh thét lên thất thanh, một con quạ đen bay ngang đầu anh, là là trước mặt anh kêu lên ai oán... Rồi nó vỗ cánh dồn dập, bay xa trong khoảnh khắc. Vài ngọn cỏ lay động và yên tĩnh lại bao trùm cảnh vật...
Mary quay lưng về phía Kilmar. Nàng chạy tràn qua khỏi đồng, vấp lên, ngã xuống giữa đám cỏ gai và đá rắn. Nàng chỉ ngừng lại để thở khi vũng lầy mất hút sau đồi. Chao! Nàng đã đi xa hơn nàng muốn. Đường về dài dằng dặc. Mary thực sự vững tâm khi thấy ống khói của Lữ quán sừng sững ngang tầm mắt. Và nàng hồi hộp khi thấy chuồng ngựa mở toang, ngựa đứng bên trong. Ông ta đã về!
Mary se sẽ mở cửa nhưng cánh cửa cọ vào sân gạch kêu lên. Joss hiện ra ở đầu hành lang, tay áo xắn cao, tay cầm chiếc ly và cái khăn. Hình như Joss đang vui? Mary thấy ông ta cầm ly vẫy nàng, giọng ồn ào:
- Ủa? Thấy tôi mà cô không chạy trốn ư? Cô có nhớ chú Joss không?
Mary cố mỉm cười chào ông ta và hỏi cuộc du hành của ông có tốt đẹp chăng.
- Tốt đẹp khỉ khô! Tôi chỉ cần kiếm tiền thôi. Nếu cô muốn biết, tôi trả lời đây: tôi có vào cung điện thăm Đức Vua!
Đắc ý về câu pha trò của mình, ông ta cười khanh khách. Patience hiện ra phía sau ông, bà cũng mỉm cười, song nụ cười của bà tắt tức thì khi chồng bà ngừng lại. Mary nhận thấy dì mình đã trở về với nỗi lo sợ thường xuyên. Nàng lặng lẽ toan rút lui thì Joss gọi giật nàng lại:
- Nghe đây! Chiều nay đừng có trốn trên đó. Có việc làm ở quầy rượu, nghe chưa? Cô biết hôm nay thứ mấy không?
Mary chưa mất ý thức về thời gian: nàng đến đây hôm thứ hai, vậy hôm nay là thứ bảy. Nàng hiểu chú Joss muốn bảo gì. Sẽ có khách đến Lữ quán Giao Mai.
***
Họ đến từng người một. Họ băng qua sân, yên lặng và rất nhanh như không muốn ai trông thấy, tuy họ đi trong bóng tối. Họ đi dọc bờ thành đến bên cổng gỗ gõ cửa và được đưa vào quầy rượu.
Có người mang theo đèn lồng nhưng ánh sáng như làm phiền họ nên họ lấy áo khoác che lại. Vài người đi ngựa, vó ngựa khua đều trong đêm phá tan bầu không khí yên tĩnh của Lữ quán Giao Mai. Kế đó, có tiếng mở cửa chuồng ngựa và tiếng trò truyện thì thào. Có người mũ che khuất mặt, áo choàng cao kín cằm. Họ có vẻ mờ ám, bí mật.
Trong Lữ quán đèn sáng rực rọi qua cái cửa sổ mở rộng. Thường, cửa sổ đóng kín mịt. Càng về khuya, sự huyên náo càng tăng. Có tiếng cười, tiếng hát, tiếng hò hét. Điều đó chứng tỏ rằng họ đã qua sự dè dặt lúc chưa đặt chân vào bên trong. Vào đến quầy rượu, ngồi giữa bạn bè, miệng phì phào thuốc lá, tay bưng cốc rượu tràn sóng sánh, họ thôi thận trọng.
Đám người tụ họp quanh Joss thật sự kỳ lạ. Mary đứng trong quầy, khuất sau hàng chai và ly nên nàng dễ quan sát họ mà họ không ngờ. Họ ngồi dạng chân trên ghế hay vắt vẻo trên băng; người dựa vào tường, người thì bách bộ loanh quanh, vài người lại nằm xoài ra đất. Hầu hết họ đều bẩn thỉu, quần áo rách nát, tóc rối bù, móng tay cáu ghét. Đúng là bọn tha phương cầu thực, đầu trộm đuôi cướp.
Trong số, có một lão trại chủ phải bán nông trại không phải vì không khai thác nổi mà vì nổi tiếng lưu manh; một gã chăn cừu đã nổi lửa đốt máy xay của chủ, một tên buôn ngựa bị đuổi khỏi vùng Devon. Một tên khác làm thợ giầy ở Launceston, nhưng thực sự, chuyên tiêu thụ đồ ăn trộm. Một gã khác, vốn là phó thuyền trưởng nhưng lại đánh đắm tàu. Một tên nhỏ thó đang gặm móng tay, làm nghề đánh cá, nghe đâu có cả một chiếc vớ đầy vàng cất kỹ trong ống khói, không biết do đâu? Vài tên ở các vùng lân cận, kẻ từ xa. Một gã nom đần độn, và gã nữa có một vệt đỏ bầm trên mặt, suốt từ khi vào nhà, gã không ngừng nắm vệt đó giật giật liên hồi làm Mary phát nôn, muốn ngất đi.
Cảm giác nầy, cộng chung với khói thuốc, mùi rượu, hơi người bẩn nằm ngồi la liệt làm cô càng khó thở. Được cái, nàng không phải đến cạnh họ, nàng chỉ rửa ly và rót đầy rượu, nàmg đứng khuất sau quầy, cố thu mình càng kín càng hay. Joss thân bưng rượu mời khách hàng, lão đi khắp phòng, cười với tên nầy, pha trò với gã nọ, vỗ vai hay ra dấu với kẻ kia. Thoạt thấy Mary, có tên cười ngất hay nhìn cô bằng con mắt xoi bói, tên thì rùn vai, nhếch mép, và trong thoáng chốc chúng quên mất cô gái, coi nàng là một cô cháu vợ của Joss, đến giúp việc như đã được nghe giới thiệu. Bọn trai tráng có vẻ muốn trò chuyện với cô song lại sợ tia mắt của Joss, sợ lão nổi giận bất ngờ chăng.
Mary thấy nhẹ nhõm vì được yên thân. Nàng sẽ xấu hổ, nhục nhã nếu biết được ý nghĩ bọn nầy. Dì nàng không ra mặt, song Mary thấy bóng dì sau cửa, một lần nàng bắt gặp tia nhìn sợ sệt của dì.
Đêm như vô tận, bóng người trước mặt Mary lờ mờ, có một lúc bọn họ như nhăn nhó, miệng rộng, tóc bù xù, răng trắng nhởn làm nàng khiếp đảm. Họ uống đến nỗi nằm lăn xuống đất, sùi bọt mép. Bọn còn lại tụ tập quanh một gã cục mịch ở Redruth, nhỏ nhắn bẩn thỉu. Lão hát nhiều bài hát tục tĩu để làm vui cả bọn. Tiếng cười như muốn rung cả mái nhà song được hãm lại trước vẻ hầm hầm của Joss.
Mary thấy có sự bất thường, man rợ trong những tiếng cười đó, nó từa tựa như tiếng con vật lạ rống lên giữa vách đá tối om. Tên bán hàng rong đem gã đần ở Dozmary ra làm hề, gã say khướt, chúng đặt gã lên bàn, bắt gã lặp lại bài hát giữa trận cười quái ác. Gã đàn ông được tán thưởng, giật giật vết bầm trên mặt kêu lên ăng ẳng, dễ sợ.
Mary nói với chú Joss:
- Tôi chịu hết nổi, chú cho tôi ra khỏi đây. Chú lo cho họ được rồi.
Joss lấy tay gạt mồ hôi trán, trừng mắt - lão vẫn tỉnh táo, dù uống liên miên - nhìn cô gái:
- Chịu không nổi hả? Cô là thứ gì chớ? Công chúa hả? Nghe đây: mầy mà được yên ổn sau quầy như thế", mầy phải quì lạy tao mới phải. Nếu mầy không là cháu vợ tao thì...hà hà...giờ nầy mầy rách như miếng giẻ rồi, con ngốc ạ!
Lão cười hô hố, lấy tay bẹo má cô gái:
- Thôi cho de. Cũng gần nửa đêm rồi, ta không cần mầy nữa. Nhớ khóa cửa kỹ, dì cô còn trùm kín đầu nữa kia.
Lão hạ giọng xuống, cúi gần tai Mary rồi nắm tay cô bẻ quặt ra sau làm cô gái đau nhói, kêu lên một tiếng.
- Tốt! Đó là cách cảnh cáo để mầy nhớ giữ mình, câm miệng thì sẽ yên thân.
Lão thôi cười, nhíu mày quan sát cô như đọc được tất cả ý nghĩ cô:
- Cô không trì độn như dì cô, đây là một điều tai hại. Cô có vẻ thông minh và tò mò, khó làm cho cô sợ. Nhưng mà...óc tò mò của cô có thể bóp bẹp như bánh đa. Thôi! Đi đi kẻo ta ngứa mắt.
Lão quay lưng lại, vì sự khinh bỉ của Mary lộ rõ trong mắt cô làm lão điên tiết lên, lão vứt cái ly trong tay xuống đất, thét to:
- Lột quần áo thằng ngốc ra, cho nó về với mẹ nó! Trời tháng 11 sẽ làm nó mát mẻ. Ta hết muốn thấy trò nhạt nhẽo của nó rồi!
Tên hàng rong và cả bọn đè nghiến tên ngốc xuống, làm theo lời Joss trong lúc tên nầy hoảng sợ kêu rống lên.
Mary chạy bay ra khỏi đó, lên phòng, hai tay bịt tai lại mà tiếng cười man rợ, khả ố vẫn dội vang trong hành lang lạnh lẽo đến tai nàng. Mary buồn nôn dữ dội, nằm xoải xuống giường.
Có tiếng cười ồn ào dưới sân rồi một tia sáng từ cái đèn lồng rọi ngay cửa sổ. Mary đến kéo cửa sổ lại và nàng thấy một bóng đen loã lồ run rẩy đang rên rỉ. Sau lưng, một đám người đuổi theo hò hét do Joss dẫn đầu, tay cầm roi vụt vun vút. Mary thay áo vội vàng và chui vào giường, trùm chăn kín bưng. Dù nhắm mắt, bưng tai, Mary vẫn thấy khuôn mặt bầm tím của tên ngốc đáng thương, vẫn nghe tiếng gào thét yếu ớt của gã khi trợt chân rơi xuống hố.
Cô gái bàng hoàng, nửa thức, nửa ngủ. Nhiều hình ảnh loạn xạ nhảy múa trong đầu nàng. Có lúc cô như lạc giữa đồng hoang, song lại vẫn tỉnh táo mà thấy ánh trăng xuyên qua cửa sổ. Tiếng cười, nói xa dần và tắt hẳn cùng với tiếng vó ngựa, tiếng bánh xe. Nàng thiếp ngủ.
Đột nhiên, Mary choàng tỉnh: có tiếng động, càng lúc càng rõ hơn, song khi nàng vùng dậy thì chỉ nghe tiếng tim mình đập rộn trong lồng ngực. Rồi có tiếng vật gì đang bị kéo lê sềnh sệch dưới sàn nhà. Nàng khẽ kéo cửa sổ nhìn xuống sân, năm cái xe ngựa cả thẩy, ba có cái mui che kín, hai cái để trần, ngay trước cổng. Ngựa thở phì phò ra khói.
Bọn đàn ông tụ tập quanh xe. Lão thợ giầy đứng ngay cửa sổ nàng nói chuyện với tên lái ngựa. Một tên vuốt ve bờm ngựa. Một gã khác nhảy lên xe, cố sức đỡ một vật nặng. Tuy chưa quen biết, nhờ ánh trăng nàng nhận rõ mặt từng tên. Họ có vẻ nôn nả vì trăng sáng quá. Những vật nặng được kéo lê một cách hối hả, dọc theo hành lang đến cái phòng các cửa đều đóng kín bí mật. Mary chợt hiểu: những kiện hàng xe chở đến được khuân vào đó. Căn cứ vào sự nhọc mệt của ngựa Mary biết chúng đã tải đồ từ xe đến. Còn một xe có mui không đưa hàng vào quán mà lại chuyển sang xe khác, hàng đủ cỡ: kiện to, kiện nhỏ, kiện tròn, kiện dài được bọc kín trong rơm hay giấy. Gã phu xe nhảy phóc lên ngựa, ra roi chạy liền khi chất đầy hàng. Mary ngạc nhiên thấy lúc nãy thì họ ầm ĩ, náo loạn mà giờ thì chăm chỉ yên lặng. Ngay cả ngựa cũng thế.
Joss Merlyn đi cạnh tên bán hàng rong, không mũ, không áo choàng dù trời lạnh buốt, tay áo xắn cao. Joss cất tiếng trầm trầm:
- Mọi việc êm xuôi chứ?
Tên phu xe gật đầu, giơ tay vẫy. Cả bọn lục tục rời Lữ quán, sau khi chia tay nhau những gói hàng đủ loại. Một tên chất lên ngựa cả khối hàng hóa mà còn mang kè kè một bọc lớn bên mình. Xe và ngựa rẽ theo nhiều hướng, mất dạng trong giây lát.
Trong sân, chỉ còn lại ba người: Joss, một tên lạ mặt và gã hàng rong. Họ cùng vào quầy rượu và đóng sập cửa lại. Mary chỉ còn nghe tiếng đồng hồ tích tắc từ hành lang. Ba tiếng bong bong buông rời rạc. Mary nghe gây gấy rét, nàng quàng khăn lên vai, không tài nào ngủ được. Vừa sợ hãi lại vừa tò mò: nàng thoáng hiểu là Joss ở trong một tổ chức buôn lậu lớn. Lữ quán Giao Mai quả ở vào một vị trí thuận tiện, Joss mua nó chắc vì lý do nầy. Lữ quán sừng sững, cô độc trên quốc lộ từ Bắc vào Nam. Thật dễ dàng cho một tên gan dạ có óc tổ chức, điều khiển những chuyến hàng từ bờ bể đến phụ lưu sông Tamar, lữ quán là chỗ nghỉ chân và chất chứa hàng lậu. Joss đã dùng đủ mọi hạng người: bọn du mục, bọn hàng rong, thủy thủ...
Có bản lĩnh, đủ hung bạo làm cho bọn thủ hạ tuân theo răm rắp, Joss có đủ thông minh để che mắt chính quyền chăng? Joss là thủ lãnh chăng? Chắc chắn thế. Mary thầm nghĩ, nếu không, bọn thô lỗ kia làm thế nào qua mặt được pháp luật? Nếu một quan tòa quan tâm đến bọn buôn lậu, chắc ông ta không thể quên Lữ quán Giao Mai.
Mary cau mày, cắn môi suy tính, nếu không vì dì nàng, nàng tức khắc rời Lữ quán để đi tố cáo Joss ngay. Song dì nàng trung thành với chồng quá đỗi làm cho cô gái thấy khó xử thêm. Nàng nhớ giọng nói sợ sệt, ánh mắt kinh hoàng của dì. Buôn lậu là một điều phi pháp nhưng có đến nỗi làm dì sợ đến mức đó chăng? Hay còn gì mờ ám hơn?
Mary thấy cần có sự khuyên bảo, nhưng biết nhờ ai? Nàng chỉ là một cô gái. Giá là trai, sẽ dễ dàng biết bao. Nàng sẽ cướp một con ngựa chở dì trên yên phi nước đại trở về Helford, quên mọi sự, hay nàng sẽ đánh nhau với chúng một trận và... sẽ thắng, hoặc nàng sẽ đi tố cáo ở một nơi gần nhất...
Cô gái 21 tuổi ngồi thừ, không có khí giới nào khác hơn là bộ óc. Cô biết nếu lão mà hay những ý định trong đầu cô, lão sẽ bóp nát cô ngay, không do dự. Mary đã thề rằng nàng không bao giờ sợ hãi hay là tỏ ra sợ hãi trước Joss hay bất cứ ai. Nàng chỉ sợ một lần trong đời: khi con bò điên đuổi nàng ở Manaccan thôi.
Ý nghĩ đó làm Mary bình tĩnh, nàng sẽ sàng thay quần áo, mang vớ nhưng không mang giầy. Nàng lướt ra hành lang, nắm tay vịn cần thang, bước xuống. Tiếng đồng hồ giúp nàng can đảm lên. Cửa quầy rượu được mở và có tiếng người vào bếp, tiếng nói thì thào, ánh sáng xuyên qua hành lang sâu hun hút. Nàng toan quay lên, nhưng sự tò mò thắng ý định ấy. Nàng đi dọc theo hành lang, nép sát vách. Nàng đã thấy rõ sự bừa bãi bên trong quầy rượu: ly cốc ngổn ngang, cả mảnh vỡ do Joss đập ly ban nãy. Mary không thấy họ ngồi đâu. Im lặng rất lâu.
Thốt nhiên có giọng cất lên, át tiếng tim nàng đang dồn dập:
- Không! Merlyn! Anh đừng hòng biến tôi thành quỷ dữ. Tôi thề chấm dứt liên lạc với anh từ hôm nay. Anh bảo tôi nhúng tay vào tội ác tày trời. Đừng hòng!
Giọng gã đàn ông cao lên run rẩy, hình như gã mất hết tự chủ rồi. Joss Merlyn nói nhỏ hơn, nàng không nghe gì nhưng tiếng cười khả ố của tên bán hàng rong thì không sao quên được. Người đàn ông đợi tiếng cười thô bỉ kia dứt rồi cất tiếng:
- Treo cổ? Tôi sợ gì cái đó? Đời tôi chả còn nghĩa lý gì. Nhưng lương tâm tôi còn và tôi sợ Thượng Đế toàn năng. Tôi có thể giết địch thủ trong một cuộc chiến đấu rồi nhận hình phạt, nhưng giết người vô tội, nhất là giết đàn bà con trẻ thì khác nào đi thẳng địa ngục?
Có tiếng xô ghế, tiếng đập thình xuống bàn, tiếng chửi thề. Lần nầy, Joss la lên:
- Đâu dễ vậy! Bồ? Đừng giỡn mặt với tôi chớ! Anh dính chặt vào vụ nầy mà. Vứt mẹ cái lương tâm của anh đi. Không lùi được đâu, trễ quá rồi. Thật tôi đoán không sai: từ đầu tôi đã ngờ cái bộ vó trưởng giả, lương thiện của anh. Mà thôi...
Joss đổi giọng, ra lệnh cho tên hàng rong:
- Harry! Đóng cửa, gài then cẩn thận đi nào!
Có tiếng đấm đá, tiếng bàn ghế gãy đổ. Cửa đóng sầm một tiếng và giọng cười khả ố của Harry làm Mary dựng tóc gáy:
- Bây giờ ta cù hắn như tên Sam lúc nãy nghe? Cũng tội nghiệp nếu ta lột áo quần hắn, nhưng biết làm sao? Hắn tự chuốc vạ vào thân mà! Tôi được lãnh cái đồng hồ tay hắn chứ, anh Joss?
- Câm mồm lại. Hãy làm những gì ta bảo: đứng yên chỗ cửa kính kia và đâm thẳng vào tim nó nếu nó tính trốn (giọng Joss chế giễu). Thưa ông thư ký hành chánh, sao ông điên bất ngờ thế, hở? Ông tưởng đây là thành phố Truno ư? Ông muốn gì? Muốn quất ngựa đi thẳng về Bodmin rồi sáng mai dẫn quan tòa và nửa tiểu đội lính đột vây lữ quán Giao Mai, hử?
Người đàn ông thở hổn hển - ông ta bị thương chăng? - tiếng ông ta đứt quãng:
- Hãy hoàn thành tội ác của các anh...ngay đi! Nếu các anh muốn thế. Phần tôi, tôi thề không tố cáo các anh và cũng không ngăn cản, nhưng tôi không hợp tác với các anh được nữa.
Im lặng. Rồi Merlyn cười khẩy:
- Coi chừng! Đã có kẻ nói hệt giọng anh và chỉ 5 phút sau hắn được treo cách mặt đất cỡ hơn tấc rưỡi. Tôi có hỏi hắn gần mặt đất như thế hắn vừa lòng chưa, vì hắn là nông dân không ưa xa rời đất. Tiếc thay: Hắn hết trả lời được, tuy rằng phải mất đến 7 phút và phần tư giây hắn mới ngưng thở.
Mary nghẹn thở, tay chân như đeo chì, nàng sợ mình sẽ ngất đi, vội vàng lần bước dọc theo hành lang. Không, nàng không thể ngất nơi nầy, lộ mất.
Hai gối run rẩy như chực khuỵu xuống. Đâu nàng choáng váng, nhưng tai vẫn nghe giọng Joss:
- Harry, về đi! Để mình ta xử tội gã nầy. Mầy hết việc rồi. Lấy ngựa của nó mà chuồn ngay, rồi thả ngựa bên vùng Camelford. Ta trị tội nó được!
Lần đến phòng khách, Mary quỵ xuống ngất đi, nhưng rồi nàng tỉnh lại rất mau. Nàng chống tay ngồi lên, lắng nghe tiếng ngựa, tiếng chửi thề và cả hai thứ tiếng xa dần trong bóng tối. Nàng không biết làm cách gì cứu nạn nhân: có thể đến Dozmary kêu cứu chăng? Khi nàng trở về, ông ta đã tắt thở rồi. Mà chắc gì nàng cầu cứu được? Có thể dân vùng lân cận đây đều là thuộc hạ của Merlyn. Dì Patience ư? Vô ích. Cầu trời cho người lạ, chỉ còn tự cứu bằng cách nhận lời hợp tác với quân gian bằng không, phải đánh nhau với chủ quán dù ông ta chắc cầm cái bại trong tay. Mary không có khẩu súng hay con dao, nếu làm cho Joss bị thương để cứu được người lạ, nàng không do dự...nhưng...
Mary định quay lại bỗng nàng nghe có tiếng động khẽ, rồi sàn lầu kêu răng rắc. Bước chân sẽ sàng tiếp tục. Ai? Dì nàng thì nhất định là chết khiếp trong phòng, tên Harry đã đi xa. Joss đang thi hành tội ác trong kia. Trí óc Mary làm việc dữ: kẻ kia đột nhập vào đây từ bao giờ? Kẻ thù hay bạn của Joss? Kẻ lạ mặt chắc không muốn chạm trán cùng bọn buôn lậu? Có thể, ông ta sẽ giúp nạn nhân? Tia hy vọng lóe sáng trong tim cô gái... đồng thời cửa quầy rượu bật mở làm Mary hốt hoảng lùi vào nấp sau cửa. Sàn nhà kêu lên răng rắc rồi, chao ơi! Tim Mary nhói lên: hai người tiến lại nhau, qua khe cửa, Mary thấy rõ ràng kẻ bí mật đặt tay lên vai Joss:
- Thế nào?
- Tùy anh quyết định chứ không phải tôi. Anh chỉ việc bảo tôi...
Khuất sau cửa, Mary không thể nhìn thấy mà cũng không nghe gì, vì kẻ lạ trước khi lên tiếng đã kéo tuột Joss vào quầy rượu. Có tiếng của đóng rồi lặng lẽ trở lại.
Hình như có một lúc nàng nghe tiếng kêu yếu ớt thoảng vào tai. Tiếng kêu cứu của nạn nhân? Rồi như có tiếng chân ra cổng chính. Đánh bạo, cô gái lại sát cửa quầy rượu áp tai nghe ngóng: bóng tối và sự im lặng phủ tràn. Không, chả còn ai bên trong cả. Nàng đẩy cửa bước vào, trống trơn. Không khí lạnh rợn làm nàng tỉnh táo. Sự khủng khiếp đã qua rồi. Ánh trăng làm nàng thấy rõ có một vật lay động dài ngoằng đong đưa từ trần nhà. Thoạt đầu, Mary nghĩ đến một con rắn buông mình xuống, nhưng định thần nhìn kỹ: một sợi dây! Cô gái rợn người vì khiếp đảm.
Chương 4
Mary vẫn ở lại Giao Mai lữ quán, nhưng nàng đã có chủ đích: nàng sẽ thuyết phục dì cùng rời Lữ quán trở lại Helford. Đó là niềm hy vọng của nàng và trong lúc chờ đợi dài đẵng - không biết lúc nào dì nàng mới nghe nàng? - nàng quyết dùng thì giờ đó tìm cách tố cáo Joss và đồng lõa. Nếu họ chỉ buôn lậu, Mary đã nhắm mắt bỏ qua. Chúng là những kẻ liều lĩnh, gan lì, không có lương tâm, ngay cả việc giết người cũng không làm chúng gờm tay. Sợi dây trên sà nhà chứng tỏ hành tung chúng. Người lạ đã bị chúng treo cổ và lấp xác giữa đồng hoang.
Tuy vậy, giữa ban ngày, mọi sự lại có vẻ yên tĩnh, sợi dây biến mất, quầy rượu được chùi rửa kỹ càng. Joss bận bịu ngoài chuồng ngựa. Vẻ thản nhiên của lão làm Mary đôi khi ngờ ngợ tưởng mọi sự xảy ra trong mơ. Nhất là khi lão hỏi thăm nàng về gia súc ở Helford, hỏi ý kiến nàng về con bò bị bệnh, về thời tiết, mùa màng.
Lão có vẻ vui là khác, không còn chửi rủa vợ. Còn dì nàng, bà vồn vã chăm sóc lão, luôn luôn nhìn vào mắt lão để dò thái độ, nom như một con chó trung thành muốn làm đẹp lòng chủ nhân. Lão như mọi đàn ông lương thiện khác, khó tin là lão đã phạm tội ác như Mary tận mắt chứng kiến trong đêm. Mary không khỏi kinh ngạc; lão ngồi đối diện nàng, thưởng thức món ra gu, tỏ vẻ quan tâm đến con bò bị đau như một nông dân chính cống!
Hai tuần trôi qua trong yên tĩnh. Mẻ làm ăn vừa qua khá lớn, để lão và đồng bọn có thể nghỉ ngơi? Vì nếu có xe đến trong đêm, thế nào cô gái cũng nghe được.
Joss không ngăn nàng đi dạo trên đồng. Dần dần cô gái biết hết vùng lân cận. Nàng vẫn theo đường lớn đến đồi núi, tránh những nơi có cỏ, thấp và ẩm vì nàng biết đó chính là những đầm lầy nguy hiểm. Mặc dù đơn độc, Mary chả lấy thế làm buồn. Những buổi xế đi dạo dưới bầu trời mát dịu nắng giúp cho sức khỏe cô gái tăng lên, thần kinh bớt căng thẳng và nàng bớt buồn, những cơn buồn chợt đến do các buổi tối rảnh rỗi, dài dặc ngồi cạnh dì nàng. Dì thường ngồi lặng, hai tay đặt lên gối, mắt nhìn đăm đắm vào ngọn lửa, Joss thì một mình bên quầy rượu đóng kín cửa hay lấy ngựa đi.
Không một người bạn, không một khách hàng. Quả bác phu xe nói không ngoa: không một xe ngựa nào dừng lại Lữ quán Giao Mai. Mỗi tuần đôi bận, xe có chạy ngang, nhưng gã phu xe nào cũng ra roi giục ngựa chạy mau. Một hôm, Mary mừng rỡ nhận ra bác phu xe đã chở nàng, nàng vẫy tay nhưng bác ta lờ đi, quất thẳng cánh vào đôi ngựa. Mary tưởng chừng như nàng vừa bị quất: ai cũng xem nàng là đồng lõa của Joss chăng? Mary tin rằng bây giờ nàng đi đến đâu chắc chẳng ai mở cửa đón nàng.
Tương lai thật đen tối, nhất là dì nàng cũng không thích tiếp xúc với ai. Đôi khi, bà nắm tay cháu vuốt ve và thì thào: “Dì thật sung sướng có con bên cạnh”. Hầu như dì sống lo âu thường trực, cặm cụi việc nhà. Im lặng như cái bóng mà động có mở miệng thì lại nói toàn những điều vô lý về đấng thần tượng Merlyn, rằng nếu không gặp vận đen, lão đã là một vĩ nhân! Biết không thể nói chuyện với dì được, Mary quen dần nghe dì kể lể: nàng đối xử dịu dàng với dì như với đứa trẻ đáng thương. Đôi khi, nàng sốt ruột, bực bội nhưng cố nén.
Trong tình trạng khó chịu nầy, một sáng, Mary lau chùi dọc hành lang. Công việc nặng nhọc làm giãn gân cốt nhưng lúc đó chỉ làm nàng cáu kỉnh. Càng lúc nàng càng bực thêm. Sao mà người và lữ quán nầy dễ ghét thế? Mary muốn xách cả xô nước bẩn tạt vào mặt Joss cho hả. Lão đang làm vườn, mưa lấm tấm ướt mớ tóc bù. Chợt thấy dì nàng lom khom trong bếp, Mary dịu lại, uể oải xách xô nước bước xuống.
Bỗng có tiếng giấy ngoài sân và tiếp đó, tiếng gõ cửa quầy rượu dữ dội. Từ khi đến đây, cô gái chưa hề thấy bóng người đến lữ quán giữa ban ngày. Một sự lạ.
Mary toan báo cho di biết thì bà lại đã ra vườn với Joss, cả hai đều không hay có người. Mary lau tay vào tạp dề rồi vào quầy rượu, nàng ngạc nhiên thấy gã nọ đã chễm chệ ngồi trên ghế, tay cầm ly bia một cách rất tự nhiên.
Cả hai lặng lẽ nhìn nhau. Hình như Mary đã gặp hắn ở đâu thì phải, miệng thanh tú, mi rậm, cái nhìn ngang ngược, thách thức. Gã nhìn nàng soi bói làm Mary giận dữ:
- Ông tính giở trò gì đó? Tự tiện vào rót bia uống... Tôi cho ông hay: chủ quán không thích người lạ đâu.
Vào lúc khác, có lẽ nàng không có thái độ đó, nhưng vì vừa mệt lại đang bực, cô trút hết căm tức vào kẻ lạ. Gã trẻ tuổi cũng không vừa: gã cạn ly rồi ra hiệu cho Mary rót thêm, gã rút ống điếu châm thuốc hút, phà khói vào mặt cô gái, hỏi:
- Cô giúp việc cho Lữ quán nầy được bao lâu rồi?
Mary tức giận, lao tới, giật cái ống điếu vứt xuống đất làm nó gãy đôi. Gã kia chỉ nhún vai và huýt sáo làm nàng càng tức.
- Ở đây, họ dạy cô tiếp khách cách đó ư? Tệ quá! Hôm qua, ở Lanceston tôi gặp nhiều cô chiêu đãi lịch sự và xinh như...tiên cơ! Mà nom cô luộm thuộm quá, tóc tai mặt mũi... Mà thôi, cái đó mặc cô. Rót bia cho tôi. Tôi đi 12 dặm đường, khát lắm.
- Ông đi mấy dặm kệ xác ông. Ông có vẻ quen biết nhà nầy, rót lấy mà uống...
Tôi báo cho chú Joss tiếp ông.
- Ồ! Đừng quấy rầy anh ấy. Giờ nầy ảnh như một con gấu ốm, vả, ảnh không sốt sắng tiếp tôi đâu. Vợ ảnh ra sao? Chắc ảnh đuổi chị ấy đi cho cô thế chỗ chứ gì! Tội nghiệp chị ta quá! Nhưng tướng cô cũng không sống nổi với ảnh quá 10 năm...
- Muốn gặp bà Joss thì ra vườn, gần chuồng gà đó. Ra cửa, đi lối kia, đừng đi lối nầy, tôi mới lau hành lang xong, không muốn phải lau lại...
- Ồ! Đừng vội! Còn chán thì giờ...
Vẻ lì lợm của kẻ lạ làm Mary tức tối:
- Nầy! Ông có muốn gặp ông chủ thì nói? Nếu không, uống xong trả tiền rồi cút xéo.
Gã trai trẻ lại cười, răng trắng bóng, vẻ quen thuộc nhưng Mary chịu, không nhớ gã là ai.
- Chao! Cô có vẻ quyền hành dữ! Joss làm sao mà sai khiến cô? Buổi tối cô đuổi chị ấy ra ngoài hay ba người ngủ một giường?
Mary đỏ mặt, hét:
- Dì Patience là em ruột mẹ tôi. Tôi là Mary Yellan. Chào ông! Cánh cửa sau lưng kia!
Nàng hầm hầm rời quầy ruợu, vào bếp và đụng đầu Joss, lão quát:
- Cô nói chuyện với ai? Tôi dặn cô giữ mồm, giữ miệng mà?
Tiếng lão vang dội tận hành lang, gã trai trẻ cũng la lên:
- Đừng đánh cô ta. Cô ta làm gãy ống điếu của tôi, không chịu rót rượu cho tôi. Anh dạy cô ta làm như vậy phải không?
Joss nhíu mày, gạt Mary qua một bên, vào quầy rượu:
- Ồ! Jean! Chú tới chi đây? Lúc nầy công việc của tôi xui xẻo lắm, không có tiền mua ngựa của chú đâu.
Lão đóng sập cửa lại. Mary dùng tạp dề lau mặt. À! Thì ra Jean, em út của chú Joss, vậy mà mình ngốc quá không đoán ra. Mắt giống như Joss nhưng tinh anh hơn và không có tia máu, cũng miệng của Joss nhưng cương quyết hơn. Jean đúng là hình ảnh của Joss 20 năm trước, tuy thấp hơn và rắn rỏi hơn.
Mary tạt nước ra sàn nhà, chà mạnh một cách tức giận. Đúng là dòng họ Merlyn hỗn xược, thô lỗ, vũ phu! Mặc dù thấp hơn anh một cái đầu và gầy, nom anh ta có một sức mạnh mà Joss không thể có. Tuy nhiên, phải nhận rằng hắn cứng cỏi và tế nhị. Rượu chè đã hại đời Joss, nếu khôn ngoan hơn anh, Jean có thể khá... Nhưng chắc gì? Mẹ nàng thường nói: “Khó chống lại với dòng máu bất lương. Khó chống lại với thói quen tội lỗi. Nếu hai thế hệ sống lương thiện thì có thể dòng họ được tẩy rửa tội ác... nhưng vẫn còn là khó lắm”.
Thật đáng thương: dì Patience bị lôi cuốn vào đời sống của họ Merlyn, dì chỉ hơn tên ngốc Dozmary một bậc thôi! Đáng lẽ dì có một nếp sống an toàn như mọi đàn bà khác tầm thường nhưng có hạnh phúc: có bạn láng giềng, đi nhà thờ vào sáng Chúa nhật, đi chợ mỗi tuần một lần, hái trái và gặt lúa ngày mùa, chăm sóc con cái nhà cửa v.v...
Dì đã từ bỏ hết để theo một gã đàn ông hung bạo, sống như một tên đày tớ trung thành xuẩn ngốc... Dì Patience!
Để khỏi chán nản, Mary vào quét dọn phòng khách, bụi tung mù mịt. Chợt có tiếng sỏi chọi vào cửa sổ và tiếp theo một nắm sỏi làm vỡ cửa kính, nàng dừng tay, nhíu mày nhìn ra: Jean Merlyn đứng bên con ngựa.
Giọng nàng chát chúa:
- Ông muốn gì nữa?
Jean không có vẻ xấc xược nữa, giọng nhũn nhặn:
- Xin lỗi cô, tôi thật lỗ mãng. Tôi không ngờ được gặp một người như...cô. Tôi cứ ngỡ là Joss gặp cô ở đâu đó, cô là nữ hoàng của ảnh...
Mary lại đỏ bừng mặt, giọng khinh bỉ:
- Tôi giống nữ hoàng ư? Tôi tưởng anh có mắt chớ, áo quần, giầy vớ kiểu nầy đáng ra anh phải biết ngay tôi là một cô gái quê...
- Ồ! Đừng giỡn! Nếu mà cô mặc áo đẹp, đi giầy cao gót coi, thua gì các tiểu thơ ở thành phố, cả thành phố lớn như Exeter.
- Hân hạnh cho tôi quá, nhưng tôi chỉ muốn thế nầy thôi.
- Dĩ nhiên, nhưng tôi e lại tệ hơn kia.
Mary ngước mặt lên, nàng biết Jean chế diễu nàng và nàng tức thì quay đi.
- Hãy khoan, tôi đã xin lỗi cô rồi mà. Tôi ngạc nhiên vì sự có mặt của cô ở đây. Tại sao cô đến đây?
Từ ngưỡng cửa Mary nhìn Jean, thầm ước: giá Jean không là người trong họ Merlyn! Nàng chậm rãi trả lời:
- Tôi đến với dì theo lời mẹ tôi trăn trối trước khi mất. Vì dì là người thân duy nhất sau mẹ tôi. Có điều, ông Jean ạ! Tôi mừng mà thấy mẹ tôi đã mất để không thấy đời sống dì tôi...
- Tôi cũng lạ về dì cô. Khi tôi còn nhỏ ảnh đánh tôi hoài. Giờ đây, nếu dám ảnh cũng đánh tôi...
- Dì tôi say mê cặp mắt của ông ta. Mẹ tôi vẫn bảo là hồi ở Helford dì bay bướm lắm. Dì đã từ chối lời cầu hôn của một trại chủ để rồi... để rồi...
- Xem ra cô không ưa Joss?
- Không bao giờ. Đó là một kẻ vũ phu, hung bạo, và còn, còn nhiều chuyện nữa. Ông ta đã biến một người trẻ trung vui tính thành một kẻ nô lệ, khốn khổ. Tôi còn sống, thề không tha lão.
- Dòng họ Merlyn chưa bao giờ đối xử tốt với vợ. Cha tôi đánh mẹ tôi đến ngất đi vậy mà bà không rời ông, nâng đỡ ông tận khi ông chết. Khi ông bị treo cổ, bà không nói chuyện với người nào cả liền trong ba tháng. Tóc bà bạc trắng. Tôi nghe nói bà nội đã anh dũng chống với lính đến bắt ông tôi.
Mary im lặng nghe. Giọng bình thản của Jean làm nàng sợ. Nàng đoán rằng trong gia đình Jean không có sự nhân ái, khoan hòa.
- Cô định lưu lại đây bao lâu? Thật đáng tiếc đây không phải là chỗ của cô...
- Biết làm sao? Tôi chỉ có thể ra đi với dì tôi. Tôi không bao giờ đành lòng bỏ bà...
- Nói cho ngay, ở đây khá yên tĩnh.
- Yên tĩnh? Hôm thứ bảy vừa rồi nhà đầy khách, toàn bọn...có vẻ bất lương...
- Không có gì lạ. Tụi đến đây toàn là tụi từng sống trong nhà tù. Không biết họ nghĩ sao về cô. Joss dám bán cô lắm đa! Sẽ có một ngày, cô ngồi trên ngựa sau lưng một tên cướp cạn...
- Muốn vậy, họ phải đánh tôi bất tỉnh đã...
- Bất tỉnh hay tỉnh thì đàn bà vẫn là đàn bà. Vả lại, tụi bất lương thì cần gì cô thuận hay không?
Mary gợi chuyện:
- Anh sống bằng nghề gì?
- Tôi ấy à? Tôi ăn trộm ngựa. Nhưng nghề nầy không khá mấy. Túi tôi rỗng không! Cô đến nhà tôi chơi đi! Tôi có con ngựa hợp với cô lắm.
- Anh không sợ bị tóm sao?
- Dễ gì? Ngựa hoang đầy đồng, làm sao phân biệt được? Giả dụ như con ngựa có bờm dài, một chân trắng, một dấu hình thoi ở tai, nó đứng ngay trước mắt chủ nó nhưng đố ông ta nhận ra...
- Tại sao vậy?
- Thì bờm nó ngắn đi rồi, bốn chân cùng mầu và dấu hình thoi biến mất tiêu hay chỉ còn là một vệt dài. Đơn giản quá, cô thấy không? Nhưng cô biết đó: tôi không dành dụm được, tiền trôi tuột qua kẽ tay như vốc nước. Tuần trước tôi có 10.000 mà hôm nay còn vỏn vẹn 100. Vì vậy, tôi muốn bán ngựa cho cô.
Mary khó nhịn cười trước một kẻ bất lương...thật thà, nàng không thấy giận nữa:
- Tôi không thể lấy tiền dành dụm ít oi mua ngựa được. Tôi cần từng trinh con...
Đột nhiên, Jean dịch lại gần Mary, anh nhìn quanh trước khi lên tiếng:
- Nghe đây! Hãy quên những lời trêu chọc của tôi đi. Lữ quán Giao Mai không phải là chỗ dung thân của người lương thiện. Tôi ăn trộm ngựa là vì không biết làm gì ở vùng cằn cỗi nầy, nhưng tôi không phải táng tận lương tâm. Tôi không như anh Joss. Không có lý nào tôi nỡ để cô bị anh ấy kéo vào tội ác. Trốn đi! Tôi sẽ giúp cô đến Bodmin tìm cách sinh nhai.
Giọng anh trầm ấm, thành khẩn. Mary gần tin Jean. Song nàng lại nhớ kịp Jean là em ruột chủ quán. Có thể chủ quán cho em dò la nàng? Không! Bây giờ chưa thể tin Jean. Để xem, thời gian sẽ cho nàng biết Jean thuộc phe nào. Bây giờ thì...chưa.
- Tôi chả cần ai giúp đỡ. Tôi tự liệu thân được. Tôi không phải tiểu thư thành phố.
Jean không nài nỉ thêm. Anh nhảy phóc lên ngựa:
- Tốt lắm. Tôi không quỳ xuống chân cô đâu. Nếu thấy cần đến tôi thì cứ qua khỏi vũng lầy Trewartha, đến chân đồng hoang "12 đàn ông" bên kia ngọn Withy Broo sẽ thấy căn nhà tôi. Tôi còn ở đó đến đầu xuân. Chào cô!
Chao ơi! Sao Jean không là kẻ ngoài dòng họ Merlyn? Mary đã tin ngay, không do dự. Làm sao tin được em Joss chứ? Hắn chỉ là một tên trộm ngựa, hắn có thể lương thiện chút chút thôi...
Jean đã nói hắn không ưa Joss nhưng lấy gì làm tin? Cách tốt nhất là phải tự quyết định mọi điều, không tin bất cứ ai. Thành vách của lữ quán nầy cũng sặc mùi máu và nói ra dự tính của mình là một rồ dại.
Sự thăm viếng bất ngờ của Jean như một tia nắng chói và khi hắn ra đi, ánh nắng ấm áp như cũng đi theo. Bầu trời xám xịt rồi mây mù bao phủ, những bụi gai đen rạp mình dưới gió. Mary thôi cau có, nàng mệt mỏi và chán nản cùng cực.
Ngày tháng nối nhau dài vô tận. Mary nghĩ đến Jean: miệng huýt sáo, hai chân thúc vào mình ngựa, đầu trần rong chơi tùy thích... Giá nàng là con trai?
Nàng lại nghĩ đến Helford: con đường dài dẫn đến đầu làng, đến dòng nước cạn, đến đàn vịt bì bõm trong bùn, vài đàn ông ơi ới gọi bò về... Đời sống thanh thản, êm dịu đó nàng không còn được tham dự nữa. Nàng dính liền nơi đây bởi một lời hứa với mẹ và bây giờ thì bởi một lời thề, bởi thương dì.
Nàng ngồi bó gối trong phòng khách nhìn mưa làm mờ cửa kính. Những dòng lệ thi nhau chảy dài xuống má nàng, Mary không buồn lau.